Thúy Kiều báo ân báo oán - Niềm vinh quang dang dở

Thứ Tư, 10/08/2011, 08:10

Đã có khá nhiều lời bình phẩm và kiến giải về màn "Báo ân báo oán" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, thậm chí có những ý kiến trái ngược xung quanh việc Kiều tha bổng Hoạn Thư trong khi lại thẳng tay trừng trị "lũ người bạc ác tinh ma" khác. Trong bài viết này, tôi xin bổ sung một số kiến giải theo quan điểm riêng của mình, mong bạn đọc có ý kiến khác thì cùng trao đổi...

Với kiệt tác "Truyện Kiều", Nguyễn Du thể hiện thiên tài văn học ở nhiều phương diện, ở toàn bộ tác phẩm, đồng thời cũng thật xuất sắc trong từng trường đoạn, trong đó có đoạn thể hiện quan hệ tay ba giữa Thúc Sinh - Hoạn Thư và Thúy Kiều. Đoạn trích "Thuý Kiều báo ân báo oán" trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 (tập 1) đã lược bỏ quang cảnh pháp đình, đoạn Thuý Kiều đền ơn vãi Giác Duyên và bà quản gia trong dinh họ Hoạn, chỉ giữ lại hai đoạn đền ơn Thúc Sinh và xử án Hoạn Thư (do khuôn khổ của một giờ dạy và đặc thù của đối tượng tiếp nhận). Dù vô tình hay hữu ý, các tác giả soạn sách đã làm nổi bật quan hệ tay ba: Thúc Sinh - Hoạn Thư - Thuý Kiều ở màn chót của nó, và chính tại đây, tính cách của từng nhân vật được hiện ra rõ ràng, sinh động hơn bao giờ hết. Mỗi câu chữ đều gợi nhớ đến quãng đời chìm nổi, đắng cay hoặc mong manh hạnh phúc đã qua của nàng Kiều, gợi đến những quan hệ quá khứ liên quan đến cả ba người.

Thật ra, người có đủ uy lực tuyệt đối để chủ tọa phiên tòa đúng ra phải là Từ Hải! Nhưng Từ vì quá tôn trọng nàng mà trao lại cái quyền đó, thành ra, dường như Kiều chưa được trang bị đầy đủ để ngồi ở vị trí quan tòa luận tội, và Từ Hải tuy "cùng ngồi" trên bục quan tòa mà hóa ra như thừa!

Vì thế cho nên, việc đền ơn cho Thúc Sinh không thể được coi là trọn vẹn tốt đẹp và việc trả oán không phải là không có mâu thuẫn, gây nên tranh cãi xưa nay.

Ta hãy xem Kiều đền ơn Thúc Sinh. Mở đầu đoạn: "Cho gươm mời đến Thúc lang". Kể cũng lạ ở cái nghi thức "cho gươm mời", dù là nghi thức thể hiện sự trang trọng ở nơi công đường, người được đưa đến để đáp đền ơn nghĩa, bất cứ ai sẽ không bao giờ ưa cái nghi thức ấy. Nhất là với Thúc Sinh, bản chất con người bạc nhược thế nào chắc Kiều đã quá hiểu. Chẳng trách gì mà anh ta nát cả thần hồn, bộ dạng thật thê thảm: "Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run". Nỗi sợ hãi từ phút đầu tới phút chót khiến cho chàng câm lặng, tuyệt nhiên không có bất kì một cử chỉ hoặc một câu cảm tạ nào!

Lời Kiều nói với Thúc Sinh gợi về quan hệ quá khứ giữa hai người: "Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non/ Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?/ Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng/ Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?/ Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân/ Tạ lòng, dễ xứng báo ân gọi là"...

Âm điệu của những câu thơ ít có sự ngắt nhịp mau nghe êm đềm phù hợp với lời nói dịu dàng, thể hiện được phần nào chân tình của Kiều. Bởi công bằng mà xét, Thúc Sinh quả là người có công khi cứu vớt nàng ra khỏi lầu xanh Tú Bà nhơ nhớp và quả là có thương xót nàng trong lúc bị Hoạn Thư đánh ghen cay nghiệt. Nhưng từ trong bản chất, Thúc Sinh là kẻ không dám xả thân vì người yêu nên cuối cùng bỏ cuộc nửa vời. Là người thông minh, nhạy cảm, Kiều hiểu được thực chất tình cảm ở con người này. Thế cho nên, đền ơn Thúc Sinh, trong lời lẽ của Kiều vẫn có chút gì gượng gạo. Sự gượng gạo đó được phủ lên bằng lớp từ hoa mĩ mang phong cách ngôn ngữ ước lệ, khuôn sáo: "nghĩa nặng nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, há dám phụ lòng cố nhân".

Thêm một chi tiết cần lưu ý: lễ vật đền ơn. Với mụ quản gia và vãi Giác Duyên là: "Nghìn vàng gọi chút lễ thường/ Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân". Họ được đền đáp bằng vàng, tương ứng với tấm lòng tốt vô tư của họ. Còn với chàng Thúc lại là: "Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân". Không nói chuyện lớn nhỏ, chỉ thấy chúng có sự khác biệt nhau về tên gọi và giá trị. Điều này đủ thấy Kiều là người thật rạch ròi, sòng phẳng và tinh tế.

Cuối lời đối thoại với Thúc Sinh, Kiều lại tung ra một tràng lời đe nẹt Hoạn Thư với một ngữ khí nôm na, quyết liệt đối lập với những lời cao nhã vừa rồi. Tiết tấu các câu thơ nhanh, dứt khoát, thành ngữ dân gian dày đặc khiến cho Kiều như vụt chuyển thành một người khác, đáo để một cách rất ... đàn bà: "Vợ chàng quỷ quái tinh ma/ Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau/ Kiến bò miệng chén chưa lâu/ Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa". Nếu quả thực Kiều hàm ơn sâu sắc và trân trọng Thúc Sinh, thiết nghĩ nàng sẽ không nỡ nói ra những lời cay nghiệt ấy...

Như đã nói trên, chủ tọa phiên tòa - xét theo tính hợp lí của đời sống thực, phải là Từ Hải, người ngoài cuộc. Oái oăm ở đây lại là Thuý Kiều, cùng lúc là nguyên cáo lẫn quan tòa. Mà phiên tòa chủ yếu giải quyết những ân oán cá nhân lại được phơi giữa ba quân, nơi thanh thiên bạch nhật. Bởi vậy, mọi phán quyết không thể tùy tiện chủ quan mà phải phù hợp với lẽ phải và lòng người. Vả chăng, một phiên tòa chân chính, vai trò của luật sư bào chữa luôn được đề cao. Ở đây, Hoạn Thư - bị cáo - đồng thời kiêm luôn trạng sư cho mình.Trước đây, tư thế bị động của một người đàn bà trước nguy cơ "bị cướp chồng", nàng đã nhanh chóng nắm vai trò chủ động và trở thành đạo diễn tài ba của màn kịch: "Làm cho nhìn chẳng được nhau... Cho người thăm ván bán thuyền biết tay". Giờ đây, trước tình thế liên quan đến tồn vong của danh dự và tính mạng, Hoạn Thư đã tỏ ra vô cùng xuất sắc. Có thể nói, Hoạn Thư là nhân vật phụ nữ sinh động, đáng nể và đáng sợ nhất trong số những nhân vật phụ nữ của "Truyện Kiều"! Thúy Kiều hơn Hoạn Thư ở tấm lòng nhưng không bao giờ là đối thủ của Hoạn Thư về mưu trí, kể cả ở màn Báo oán này.

Hãy xem Thuý Kiều vào vị trí quan tòa xử tội: "Thoắt trông nàng đã chào thưa:/ Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây".

Câu "chào thưa" mát mẻ, mỉa mai, đay nghiến tuy có phản ánh cái thế "thay bậc đổi ngôi", ngầm kiêu của Kiều, nhưng thực ra không có nhiều tác dụng để áp đảo đối phương "ngay từ loạt đạn đầu", mà vô tình nó lại giống như một sự khơi gợi lòng kiêu hãnh của dòng dõi trâm anh thế phiệt ở ả ta mà thôi.

Rồi sau đó là một tràng lời đe nẹt chung chung, không có nội dung luận tội cụ thể: "Đàn bà dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan/ Dễ dàng là thói hồng nhan/ Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".

Hầu như tất cả đều là những dáng dấp của thành ngữ dân gian để nói về đàn bà và lẽ đời nhân quả nói chung. Hớ hênh, vô ý hay là khó nói, Thuý Kiều như đã vô tình gợi ý cho Hoạn Thư quỷ quyệt để ả có cơ hội chộp lấy và xoáy sâu vào hai chữ "đàn bà", "thói hồng nhan" trong lời tự bào chữa.

Sau một thoáng sợ hãi "hồn lạc phách xiêu", Hoạn Thư nhanh chóng tìm ra con đường thoát thân tuyệt hảo bằng tất cả sự khôn ngoan vốn có.

Về lẽ chung, "Dễ dàng là thói hồng nhan/ Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều". Đúng là như thế, nhưng cùng với nó còn một quy luật nữa, cô (Thuý Kiều) cũng cần phải hiểu: "Rằng: "Tôi chút phận đàn bà/ Ghen tuông thì cũng người ta thường tình"; "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai".

Nếu Thuý Kiều đánh trúng vào cái tội tàn ác, cay nghiệt trước đây của Hoạn Thư, thì Hoạn Thư đã khôn khéo lái mũi tên sang hướng khác: Đàn bà với chuyện ghen tuông! Bằng sự phản bác đúng lí, Hoạn Thư đã nhanh chóng san hòa 1-1, lập lại thế cân bằng giữa quan tòa và tội phạm. Từng từ ngữ một, Hoạn Thư đều cân nhắc kỹ lưỡng: Không chỉ "đàn bà" mà còn là "chút phận" (thu nhỏ hết mức thân phận vốn mỏng manh); "người ta" (quy luật phổ biến), "thì cũng" (tất yếu), "thường tình" (đó là chuyện dễ hiểu); "chưa dễ ai chiều cho ai" (ai lâm vào cảnh ấy, kể cả cô - Thúy Kiều - cũng hành xử thế thôi!). Qua lời Hoạn Thư, đòn ghen hiểm độc xưa kia mà ả dành cho Kiều trở thành nhẹ tênh.

Về lẽ chung thì như thế, còn tình riêng: "Nghĩ cho khi gác viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo".

Đây là đòn phản công hiểm ác nhất nhằm hạ uy thế quan tòa của Kiều. Một câu khiêm nhường: "nghĩ cho..." mà chẳng khác nào kim châm đau nhói vào tâm khảm của Kiều. Vì nó nhắc nhớ đến tháng ngày ở Quan Âm các với tâm trạng hoang mang lo sợ "miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này", đến - đặc biệt đến - việc Kiều chạy trốn có mang theo chuông vàng khánh bạc để độ đường phòng thân mà không bị Hoạn Thư truy đuổi. Cái ân: "đánh" xong mở cửa cho ra của Hoạn Thư đối với Thuý Kiều, đó là hiện thực. Công bằng mà xét, so với lũ Mã, Sở, Bạc..., Hoạn Thư hơn chúng là không đẩy Kiều tới bước đường cùng và không phải không có lúc ứng xử với Kiều một cách "quân tử".

Và nữa: "Lòng riêng riêng những kính yêu", lý lẽ này của Hoạn Thư cũng có cơ sở thực tiễn khá vững vàng, bởi đã có đến ba lần Hoạn Thư vì "tri ngộ" tài năng của Kiều mà có phần nương nhẹ, thậm chí thương cảm với Kiều khi nàng trong tay ả.

"Già dơ" hơn, Hoạn Thư gạt lẽ chung, tình riêng ra một bên, nhận tội lỗi về mình: "Trót đà gây việc trông gai". Một cách nói giảm nhẹ, khiến người nghe có cảm giác rằng cái sự đánh ghen có trù liệu kĩ càng, bài bản và cay độc trước đây của Hoạn Thư dành cho Thuý Kiều chỉ là đã quá tay ngoài chủ ý! Và cuối cùng, Hoạn Thư đánh vào tình cảm và sĩ diện của đối phương: "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?". Câu nói chứa đựng sự tâng bốc, đề cao lòng nhân hậu của Kiều và xin xỏ; nhưng xin xỏ mà vẫn giữ được cái thế không van lơn, cái thế của một người làm chủ tình huống, mang theo cái "hách" của dòng dõi trâm anh thế phiệt.

Có thể nói, trong màn trả ân báo oán, Hoạn Thư đã bộc lộ sự khôn ngoan kiệt xuất trong vai trò trạng sư tự bào chữa cho mình.

Với lời tự bào chữa đầy thuyết phục ấy của Hoạn Thư, vị quan tòa Thuý Kiều không thể không tha bổng cùng vời lòng thầm phục đối thủ: "Khen cho: "Thật đã nên rằng/ Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời/ Tha cho thì cũng may đời/ Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen/ Đã lòng tri quá thì nên/ Truyền quân lệnh, xuống trướng tiền tha ngay".

Xem thế, cuộc đền ơn trả oán của Kiều lại trở thành dở dang, không trọn vẹn, như tất cả những dang dở không trọn vẹn trong suốt cuộc đời nàng

Nguyễn Nguyên Tản
.
.