Sáng mãi những ngọn đèn giữa trùng khơi

Thứ Sáu, 30/06/2017, 08:04
Đó chính là những ngọn hải đăng uy nghi kiêu hãnh, như những pháo đài bất khả xâm phạm soi đường cho mọi hải trình. Để hoàn thành sứ mệnh “soi đèn” giữa trùng khơi đã có biết bao con người từng ngày bám trụ, bất chấp sự khắc nghiệt của thời tiết cho đến bom đạn của kẻ thù…


Từ hải đăng Long Châu

Tôi đã đôi lần có dịp đến những đảo tiền tiêu của Tổ quốc, từ khu vực phía Bắc cho đến miền Trung, rồi vào đến phía Nam, mỗi lần đi là một lần cảm nhận và trải nghiệm. Lần này được theo con tàu An Bang của Xí nghiệp Bảo đảm hàng hải làm nhiệm vụ tiếp tế cho các trạm hải đăng trên biển, tôi vẫn không khỏi bồi hồi, háo hức… 

Đi giữa hai hàng phao luồng ra vào cảng Hải Phòng, tàu thuyền xuôi ngược như mắc cửi, Giám đốc Xí nghiệp Bảo đảm an toàn hàng hải Đông Bắc Bộ Trịnh Minh Hải cho biết, các phương tiện lưu thông đảm bảo an toàn chính là nhờ hàng phao luồng với hàng trăm quả phao rải suốt từ ngoài phao số 0 vào.

Cùng với đó đơn vị còn có nhiệm vụ vận hành hệ thống đèn biển và báo hiệu luồng tàu biển trong phạm vi từ tỉnh Quảng Ninh đến hết tỉnh Thái Bình, bao gồm 10 đèn biển và 7 tuyến luồng tàu biển quốc gia với tổng chiều dài hơn 150km.

Phóng viên Báo CAND tác nghiệp cùng với công nhân Trạm Hải đăng Long Châu.

Sau khoảng 2 giờ đồng hồ con tàu qua vùng biển thuộc quần đảo Cát Bà, rồi tiếp tục đi thêm 2 giờ đồng hồ nữa qua phao số 0, rồi mới đến đảo Long Châu. Từ phía rất xa ngoài biển mọi người đều có thể nhìn rõ một ngọn hải đăng cao sừng sững như cây bút khổng lổ viết lên trời xanh. Tuy nhiên để lên được đảo, chúng tôi phải lần nữa dùng ca nô chuyển tải vào bờ.

Đưa chúng tôi vượt qua con dốc dài hơn 1 km, Trạm trưởng Nguyễn Mạnh Hùng kể về lịch sử của hải đăng Long Châu là do người Pháp xây dựng từ năm 1894, cao 109,5 mét so với mực nước biển, theo kiến trúc hình vòm độc đáo với những ô kính cường lực bao quanh. 

Ở đúng tâm của căn phòng là tổ hợp các chóa đèn phẳng, to như tấm phản với chi chít những bóng đèn nhỏ, được gọi tim đèn. Mỗi khi có bão, áp thấp nhiệt đới hoặc gió mùa Đông Bắc đột ngột tràn về thì đảo Cát Bà là một trong những nơi tìm về neo đậu trú tránh thiên tai an toàn của hàng ngàn tàu. 

Và trong đêm tối mịt mùng của biển cả, dưới màn sương mưa giăng mắc, có một con “mắt thần” khổng lồ đã miệt mài soi đường chỉ lối cho từng con tàu tìm về trú ngụ suốt bao năm qua.

Kể về cuộc sống trên đảo Long Châu, Trạm trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cũng cho biết thêm, trên diện tích 1 km vuông, xung quanh toàn đá tai mèo xám xịt nhọn hoắt, chơ vơ giữa bốn bề là biển. Dân số của đảo có khoảng mươi người, toàn đàn ông, chia làm hai nhóm có nhiệm vụ độc lập là điều hành ngọn hải đăng Long Châu và kiểm soát biên phòng. Nước ngọt cũng trở nên khan thiếu nghiêm trọng, nên chẳng cây cối nào mọc nổi. Họa hoằn lắm có một vài cây cỏ cựa mình len đá trồi lên. Vào mùa khô cứ mỗi ngày, anh em lại phải thay nhau cuốc bộ xuống tận chân núi, bến tàu để mua lại nước của bà con dân chài. Nước quý tới mức anh em phải tái sử dụng nhiều lần, cuối cùng mới dám mang ra tưới rau.

Thế nhưng từ bao đời nay, ở nơi cằn khô, khắc nghiệt này lại có những con người vẫn từng ngày bám trụ để hoàn thành sứ mệnh “soi đèn biển”. “Ngay cả bom đạn kẻ thù còn chưa làm lung lạc được ý chí giữ đảo, bảo vệ đèn thần của người lính đảo, nói chi đến thiên nhiên khắc nghiệt” - anh Hùng tự hào nói. Cũng theo anh Hùng kể lại, hải đăng Long Châu đã từng là địa chỉ để máy bay Mỹ trút xuống hàng ngàn tấn bom đạn nhằm phá hủy.

Bởi trong thời gian chiến tranh, hải đăng Long Châu và hải đăng Hòn Dáu (Đồ Sơn) đóng vai trò tối quan trọng khi dẫn tuyến cho hàng loạt chuyến tàu không số vận tải vũ khí và hàng hóa vào tiền tuyến miền Nam, là điểm khởi đầu của con đường Hồ Chí Minh trên biển. Biểu tượng của ý chí quật cường ấy là người công nhân Cao Văn Viên. Trong trận bắn phá của kẻ thù năm 1967, khi thấy đèn bị bắn hỏng, anh Viên đã xung phong trèo lên đỉnh tháp để sửa chữa thì bị trúng đạn và mãi mãi ra đi ở tuổi 20.

Đến mắt thần giữa Vịnh Bắc Bộ

Từ Long Châu chúng tôi lại lên tàu tiếp tục hành trình đến đảo Bạch Long Vỹ. Quãng đường cũng chỉ đi hết khoảng hơn 4 giờ đồng nữa nhưng vất vả hơn lúc trước rất nhiều. Dù là trời yên, biển lặng nhưng vẫn có những con sóng cao hàng mét đẩy con tàu trọng tải nghìn tấn lên cao rồi lại hạ xuống thấp.

Hải đăng Bạch Long Vỹ sừng sững cao hơn 100 mét so với mực nước biển nổi lên giữa Vịnh Bắc Bộ. Giám đốc Trịnh Minh Hải tự hào khoe, đây là một trong những ngọn đèn cao nhất của ngành Bảo đảm hàng hải, được xây dựng từ năm 1995 và ánh sáng đèn tín hiệu có thể quét xa với bán kính 26 hải lý. Đêm xuống từ trên đỉnh cao nhất của ngọn hải đăng nhìn xuống thấy toàn bộ huyện đảo Bạch Long Vỹ bừng sáng bởi ánh điện từ trong nhà cho đến các tuyến đường.

Cũng từ nơi “mắt biển” chiếu sáng, nhìn xung quanh thấy sao giăng giăng lung linh trên trời, sao đung đưa giữa mênh mông biển. Một bức tranh kỳ vĩ của biển cả được tô điểm bằng ánh đèn của tàu thuyền nhấp nháy những đốm sáng xanh đỏ…

Cả Trạm Hải đăng Bạch Long Vỹ có 8 anh em, chia làm 8 ca, làm việc suốt 24/24 giờ. Ban ngày dùng âm thanh bằng còi điện, tầm hiệu lực 3 hải lý. Ban đêm dùng ánh sáng, trong đó đèn chính thấu kính quay tầm hiệu lực phát sáng 24 hải lý, còn đèn phụ phát sáng 15 hải lý… Câu chuyện giữa chúng tôi lắng lại bởi những tâm sự riêng của mỗi con người gác đèn nơi chân sóng. Trạm phó Phạm Văn Đức tâm sự, những năm tháng đứng gác trên biển, thời gian ở trạm đèn còn nhiều hơn gấp nghìn lần thời gian các anh ở bên vợ, con.

“Cái nghề của bọn tôi nó thế, thành thử trước khi cưới vợ phải làm công tác tư tưởng để vợ hết sức chia sẻ, yên tâm ở nhà, thay mình gánh vác mọi chuyện” – công nhân Vũ Văn An tâm sự và cho biết thêm nhiều khi vợ điện thoại réo liên tục mà chẳng thể về, xót xa và thương lắm... 

Cũng theo những nhân viên nhà đèn cho biết, cực nhất vào những mùa biển động, nhớ nhất là năm kia, tầm tháng 9, 10, gió Nam lên cấp 10, 11, giật cấp 12, nửa tháng trời không tàu thuyền nào ra đảo được. Anh em trên trạm luôn tự tăng gia sản xuất, mùa nào thức nấy, trồng đủ loại rau xanh như cải, rền, bí, mướp...

Khó khăn là vậy nhưng tất cả những người gác đèn đều khẳng định không ai muốn rời xa. Gắn liền với những ngọn hải đăng là những con người dám nhận cuộc sống cô độc nơi đèo heo hút gió, nơi đảo xa. Những con người “sáng lau sương”, “chiều lau bụi”, luôn luôn xác định trong tâm trí của mình “trạm là nhà, biển đảo là quê hương” và “trái tim còn đập, đèn còn chớp sáng”.

Văn Huy
.
.