Nhân đọc trường ca "Biển mặn" của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo NXB Hội Nhà văn, 2015

Neo hồn thơ vào "Biển mặn"

Thứ Năm, 31/12/2015, 13:49
Khi đọc tập trường ca "Biển mặn", tự nhiên tôi có ý so sánh với trường ca "Biển" của nhà thơ Hữu Thỉnh. Hai người từng là lính. Hai người cùng viết về biển. So sánh thì thấy: Hai nhà thơ, hai cách tiếp cận biển. Và dù viết sau, nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã có một cách riêng để triển khai trường ca của mình. Chúng ta sẽ thấy đó là một cách triển khai thông minh, độc đáo và sáng tạo.

Chúng ta đã có nhiều, rất nhiều các tác phẩm văn xuôi, thơ và trường ca viết về chiến tranh. Nhưng đề tài chiến tranh vẫn không bao giờ cũ. Trường ca "Biển mặn" của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vừa xuất bản, như đang làm nóng lên đề tài này. Mấy câu thơ trong bài thơ "Những người lính đi qua thành phố" được lồng vào trường ca này có lẽ giúp chúng ta hiểu vì sao Nguyễn Trọng Tạo viết trường ca "Biển mặn":

Người lính đi, qua mấy cuộc chiến tranh
Nói về súng dẫu nhiều - chưa nhàm cũ
Nói mất mát, hi sinh dẫu cạn lời - chưa đủ

Khi đọc tập trường ca "Biển mặn", tự nhiên tôi có ý so sánh với trường ca "Biển" của nhà thơ Hữu Thỉnh. Hai người từng là lính. Hai người cùng viết về biển. So sánh thì thấy: Hai nhà thơ, hai cách tiếp cận biển. Và dù viết sau, nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã có một cách riêng để triển khai trường ca của mình. Chúng ta sẽ thấy đó là một cách triển khai thông minh, độc đáo và sáng tạo.

Trường ca "Biển mặn" của Nguyễn Trọng Tạo gồm 5 chương và phần Vĩ thanh: Mặn hơn muối; Những cột mốc sống; Lính biển; Hải chiến; Đảo bão; và Vĩ thanh.

Tập thơ “Biển mặn” của Nguyễn Trọng Tạo.

Bản trường ca này có chủ đề khái quát "mặn hơn muối" để nói về "Biển mặn".  Trên trục hoành không gian, biển trải từ Móng Cái đến Hà Tiên, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo khác. Đồng thời trên trục tung lịch sử, tác giả triển khai "Những cột mốc sống" từ thời xưa đến bây giờ, khẳng định chủ quyền ở Trường Sa và ở Hoàng Sa.

Bốn thế kỷ đi qua cột mốc giữa trùng dương
Những Hải đội Hoàng Sa nhập hồn vào sóng nước
Nhập vào đá san hô
Nhập vào Tổ quốc
Vẫn còn đến hôm nay tục tế lễ sân đình
Tế lễ khao quân
Tế sống lính lên đường
Những hình nộm chết thay cho người lính
Cầu an bình cho mọi chuyến hành hương.

Về lịch sử nối tiếp các thế hệ, trong chương "Lính biển", tác giả đã viết về người lính hôm nay, con trai của người lính năm xưa trong bài thơ "Những người lính đi qua thành phố". Thật khái quát và cô đọng:

Cha đã lính. Bây giờ con lại lính
Những thế hệ nối nhau đi giữ nước non nhà
Xưa cha Trường Sơn Rừng
Nay con Trường Sơn Biển

Tiếp nối lịch sử "Hải đội Hoàng Sa" từ thời nhà Nguyễn, tác giả dựng lên chương "Hải chiến" rất cụ thể, rất "thời sự". Ở đây không có lối nói bóng gió nào hết. Đánh nhau với bọn cướp biển không phải chung chung như vẫn nghe là "tàu lạ":

Bọn cướp biển là ai? Tôi đã nhìn rõ mặt
…Tanh tưởi ngoại ngữ quen
Nghìn năm nhai xác….
…Rồi một ngày họ thành quân xâm lược…
Tín hiệu hòa bình phát đi không thể nào xua đuổi
Những chiến hạm xâm lăng.
…Lửa đã cháy
Và biển xanh dâng sóng…

Có thể nói, toàn bộ bản trường ca, đã thể hiện rõ tính chất bi tráng của cuộc chiến khẳng định chủ quyền và tinh thần vệ quốc của chúng ta trên biển.

Chương "Đảo bão" là chương khắc họa thêm phẩm chất của người lính biển Việt Nam. Nguyễn Trọng Tạo khắc họa sâu đậm về tập thể những người lính vẫn vững vàng trên đảo bão, như là biểu tượng của cột mốc chủ quyền thiêng liêng:

Đảo vẫn đứng hiên ngang như đứng vậy từ xưa
Dáng người lính sáng lên cùng đá đảo
Những người lính đầu trần không áo
Lại đắp dày công sự của mình lên

Phần "Vĩ thanh" là một phần tương tự như cái kết thúc có hậu trong truyện cổ dân gian. Chúng ta đã cắm mốc chủ quyền bằng những "cột mốc sống". Chúng ta có những người lính biển dày dạn chiến chinh. Chúng ta đã có những trận hải chiến ác liệt. Chúng ta vẫn vững vàng trong bão tố biển khơi. Và những gì của ông cha ta để lại, chúng ta phải giữ lấy bằng mọi giá. Và đảo đá đã thành quê:

Nghe tiếng gà gáy trưa trên ghềnh đá
Nghe tiếng bò gọi đêm thân thương quá
Tiếng chuông chùa rung động cả hoàng hôn…

Kết thúc trường ca là một sự thấu hiểu bằng con tim:

Biển nơi này mặn lắm
Những cuộc đời máu thắm đã thành hoa

Rất nhân văn, và cũng rất trọn vẹn khi "Điệp khúc tiếng sáo" luôn luôn trầm bổng khắp bản trường ca. Nó như vừa gói lại mỗi chương, lại như vừa nhắc lại và mở ra dòng mạch phát triển của chủ đề chính với một sắc thái mới mang tính phức điệu trong cấu trúc âm nhạc giao hưởng:

…Nhặt lên hạt muối, thưa rằng:
Một phần biển mặn. Mấy phần máu xương…

Tôi đã đọc nhiều trường ca, nhiều tiểu thuyết viết về sự hi sinh của chiến sĩ ta. Nhưng không thể nào không rưng rưng khi đọc những câu thơ về sự hi sinh kiêu hãnh mà đau xót của các chiến sĩ giữ đảo Gạc Ma:

Những người lính sát vào nhau một vòng tròn khép kín
Mặc pháo 100 li từ biển bắn vào
Các anh hóa thành sao
Các anh hóa thành cờ
Mỗi người lính một lá cờ Tổ quốc
Đó chính là tượng đài của sự hy sinh đã được dựng bằng thơ.

Cái mới mẻ và hấp dẫn của tập trường ca này chính là bên cạnh những câu thơ được viết kĩ, trau chuốt, vừa có vẻ thô mộc cường tráng, vừa tràn đầy cảm xúc và mang tính khái quát cao, thì có những đoạn văn xuôi đậm đặc tư liệu lịch sử, thông tấn. Không chỉ một đoạn mà nhiều đoạn từ sách của Lê Quý Đôn, từ sách sử triều Nguyễn, và từ những trang báo, trang tin về Hoàng Sa, Gạc Ma… (Theo sức đọc còn hạn chế của tôi, chưa có một trường ca nào làm như vậy!). Thế mà những đoạn văn xuôi tư liệu ấy lại mang tới rất nhiều lượng thông tin tâm hồn. Đó là cách mà Nguyễn Trọng Tạo đã làm cho dòng mạch trường ca trở nên sinh động, có sức cuốn hút riêng.

Cuối cùng, chúng tôi muốn nói tới những tìm tòi của tác giả Nguyễn Trọng Tạo trong bản trường ca này. Các chương được liên hệ với nhau chặt chẽ theo chiều rộng không gian biển Việt Nam. Và theo chiều dài lịch sử từ khi nhà Nguyễn lập Hải đội Hoàng Sa, cho đến những trận hải chiến gần đây nhất. Tác giả đã sử dụng  những thần thoại, truyền thuyết về Con Rồng cháu Tiên, về Đảo là con trai đất liền, Biển là tiên nữ; về việc ném đá thành các đảo, và cả những tục lệ "Tế lễ sân đình/ Tế lễ khao quân/ Tế sống lính lên đường" trong nghi lễ dân gian.

Nhân vật xưng tôi trong bản trường ca khi là một người bình thường "ra khơi vào lộng", nhưng khi lại hóa thành một nạn nhân trên thuyền bị hải tặc ráp vây, hoặc thành "con thuyền bị đâm trên biển của mình/ Những xương sườn gãy nát", khi khác thì như là trong thần thoại "Tôi mảnh ván tả tơi lại mọc thành cây/ Thành rừng xanh/ Thành cổ thụ/ Lại xẻ ván đóng thuyền". Tôi chính là người lính hải quân, có người cha đã viết bài thơ "Những người lính đi qua thành phố"…

Nhân vật tôi vì thế mà đa dạng, đa thanh. Sử dụng "điệp khúc tiếng sáo", sử dụng những ghi chép trong sách vở, trong bản tin. Sử dụng bài thơ hay của mình đã viết về người lính. Tất cả đều được huy động có chọn lọc, được sắp xếp cài đan chặt chẽ. Đó chính là độ chín trong cảm xúc và nghề nghiệp của người viết. Và điều cuối cùng là có nhiều câu thơ hay có thể đứng độc lập.

Một bản trường ca hay là bản trường ca có giá trị tư tưởng cao và có giá trị văn chương tương ứng. Thiếu một trong hai thứ, là không trọn vẹn. Rất đáng ghi nhận là giá trị tư tưởng của bản trường ca này nằm trong văn mạch yêu nước, một truyền thống quý báu của dân tộc. Và về nghệ thuật, ngoài bố cục chặt chẽ liền mạch, hợp lí, còn có nhiều câu thơ được viết bởi một tài hoa đang vào độ chín. Những câu thơ có thể neo vào tâm trí mọi người, như mỏ neo của các tàu chiến sĩ hải quân neo vào lòng biển.

Trong một rừng trường ca của chúng ta, "Biển mặn" là một trường ca thành công. Nó càng đặc biệt có ý nghĩa khi trường ca này ca ngợi những người lính biển đang tiếp nối "Trường Sơn Rừng" của lớp lớp cha anh.

Hà Nội, 13/12/2015

Vũ Nho
.
.