Hòa trong muôn tiếng chuông ngân...

Thứ Hai, 28/06/2010, 16:46
Trong văn học nghệ thuật, các sáng tác thường bắt nguồn từ một cảm xúc hoặc một nguồn cảm hứng đã được nuôi dưỡng từ trước. Trường hợp của nhà khoa học Hoàng Quang Thuận - Giáo sư, Tiến sĩ, Viện trưởng Viện Công nghệ Viễn thông quả là đặc biệt thú vị.

Khi anh hành hương về Di tích kinh đô Hoa Lư, trong một đêm ngủ lại cố đô, lòng anh tràn ngập niềm hân hoan lạ thường, rồi những hình ảnh, cảnh vật, chuỗi sự kiện lịch sử tự nhiên ùa về; cứ thế anh "chép" không ngừng nghỉ. Và thế là "Hoa Lư thi tập" ra đời với 122 bài thơ.

Thật ra, trong ký ức tuổi thơ của hầu hết người viết đều đầy ắp những kỷ niệm về đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt. Những hình ảnh thân thương, gần gũi ấy dường như là hình bóng quê hương xứ sở đã ăn sâu vào tâm thức dân tộc.

Qua hai tập thơ trước: "Thi Vân Yên Tử" và "Ngọa Vân Yên Tử", Hoàng Quang Thuận cũng đã "tìm về nơi dấu tích Phật tiên" - vùng "khí quyển của mỹ học thiền"; đến thi phẩm này, cũng với tứ thơ dạt dào cảm xúc, âm điệu mang mang trầm lắng, âm hưởng thơ đượm "chất Phật", ngát hương thiền, người thơ sau bao năm xa cách được trở về soi bóng bên sông dài, suối biếc, hồi tưởng về thuở xa xưa bên bóng núi mù sương có đám trẻ chăn trâu mới tuổi hoa niên đã ý thức đất nước mình đang cơn loạn lạc nguy biến nên đã nghĩ ra trò chơi hái bông lau làm cờ tập trận. Với thời gian, cậu bé mục đồng luôn được các bạn tôn làm thủ lĩnh ngày ấy đã trở thành vị hoàng đế dẹp loạn 12 sứ quân (kéo dài 22 năm).

Về với cố đô, thi sĩ để lòng lắng đọng, trầm tư suy tưởng cách đây ngàn năm, nơi đây là cung vàng điện ngọc, lẫm liệt uy nghi của một triều đại huy hoàng. Đứng trước bóng ảnh gần xa thấp thoáng núi non, đền chùa miếu mạo, ao sen bát ngát, dấu vết sông xưa... còn đâu thấy nữa "Cây đa cổ thụ ngàn năm tuổi/ Giếng ngọt ngày xưa cạnh góc sân".

Trong bài "Chùa Ngần" có đến 3 lần xuất hiện từ "xưa": "xưa kia kho bạc", "giếng ngọt ngày xưa", "ngàn xưa cung điện". Tất cả "ngày xưa" ấy đôi khi làm mắt ta hoen mờ...

Có những trang sử kiêu hùng thúc giục lòng ta sục sôi lên đường ra trận; cũng có những trang sử thi như "Hoa Lư thi tập" làm người đọc cảm xúc rưng rưng về một thời hoa lệ, một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng lẫm liệt oai hùng, một chiến công trong muôn ngàn chiến công hiển hách của dân tộc Việt:

Ngàn năm đất nước bao binh lửa
Sử sách bi hùng máu thắm trang  

                               (Hoàng Long Giang)

Tuẫn tiết theo vua bảy danh thần
Lòng trung vì nghĩa tiếc gì thân
Khói hương nghi ngút đền Phủ Khống
Ngàn năm con cháu mãi tri ân

                                 (Đền Phủ Khống)

Ngoài "khói hương" thơm tưởng nhớ từ ngàn năm đến nay vẫn nghi ngút tỏa, nay còn có thêm nén tâm hương văn hóa - thi phẩm "Hoa Lư thi tập" của Hoàng Quang Thuận cung kính dâng lên Tổ tiên với tâm thành tri ân.

Tập thơ là một chuỗi những hình ảnh, sự kiện, tư tưởng của triều đại Vua Đinh.

Vạn thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn thập nhị sứ quân, năm 968 lên ngôi Hoàng đế, tức Đinh Tiên Hoàng, lập nên nhà Đinh, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, lấy niên hiệu là Thái Bình Nguyên Niên nhằm xóa hẳn dấu vết của hoàng đế phương Bắc, nêu cao ngọn cờ thống nhất độc lập quốc gia. Liền sau đó, định phẩm trật cho các tướng sĩ lỗi lạc có công tham dự vào quốc chính. Từ đấy (kể từ nhà Đinh), đạo Phật được Vương triều công nhận như một Quốc giáo.

Trang sử Việt
Đồng thời là trang sử Phật
Trải bao độ hưng suy
Có nguy mà chẳng mất.

                             (Hồ Dzếnh)

Có thể nói, mỗi bài thơ là một trang sử; song ở đây "Hoa Lư thi tập" không phải dạng thông sử viết theo tiến trình lịch sử chi tiết, cụ thể mà trong thi tập này sự kiện đã được "thi hóa" nên có sức truyền cảm mạnh:

Khi thì lẫm liệt, oai phong:

Sào Khê dòng chảy hướng nam sông
Vua Đinh tập luyện thủy quân thần
Dẹp tan loạn lạc mười hai sứ
Để lại ngàn sau ngọn cờ hồng.

                                                   (Sào Khê)

Ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông
Hào khí Đông A nhất cõi trần

                                                   (Hào khí Đông A)

Lúc thì bi thương, thê thiết:

Hương lửa đang nồng trâm vỡ tan
Con còn thơ dại giặc ngoại bang
Thế nước lòng dân trời binh lửa
Có hiểu lòng ta hỡi Đinh Hoàng

                                                 (Thái hậu Dương Vân Nga)

Không gian tịch mịch đến nao lòng trước sự hoang phế của một thời cực thịnh mà dư âm còn vang mãi đến muôn ngàn sau:

Tiên Long núi tháp dựa Áng Sơn
Ngàn năm mưa gió tháp đâu còn
Cực thịnh một thời nơi núi biếc
Đền vàng tháp ngọc thuở vàng son

                                                     (Chùa Kim Cương)

Tất nhiên, nếu anh chỉ trở về cố đô vì mục đích thưởng ngoạn, thỏa mãn trí tò mò thì ắt sẽ không khám phá những điều siêu nhiên, kỳ bí, những chứng tích còn lưu dấu nơi vùng đất tứ linh của kinh thành cổ được, mà phải có sự am hiểu, đặc biệt là sự rung động về "cái hồn" còn phảng phất nơi đây trong từng phiến đá, viên gạch, mái chùa, ngọn cỏ, cội cây:

Bóng ai câu cá bên sườn núi
Có phải người xưa hóa ngư ông
Tiều phu mải miết đi tìm củi
Mây vàng che mát cả dòng sông

                                                          (Bến Thánh)

Quạnh quẽ am xưa ánh dương tà
Phong quang thay đổi tiếng quạ xa
Ngọc am chùa báu mờ sương lạnh
Cây ổi trước chùa đã đơm hoa

                                                   (Chùa Bà Ngô)

Ngàn năm thế sự bao thay đổi
Còn lại ngang trời một cánh mây

Du cho vật đổi sao dời thì cũng còn một cánh mây. Mây cũng là một thực thể sống động, huyền ảo, cái bao la của vũ trụ, vẻ bát ngát vô biên của mây trời đủ để bảo chứng, tường tận về một thời mà tinh thần nhân văn cao đẹp xiết bao. Chấm dứt thời Đinh, mở ra thời kỳ Lý Trần cực thịnh.

Cổ Pháp trời sinh bậc đế minh
Nhà Lý rạng danh cả cung đình
Tầm nhìn thế nước bao trời đất
Soạn Chiếu dời đô vua anh minh

                                                          (Vua Lý Thái Tổ)

Trải qua bao thăng trầm, biến thiên lịch sử, Phật giáo vẫn luôn hiện hữu như là một thực thể đồng hành với dòng chảy về phía trước của dân tộc Việt Nam. Di tích cố đô Hoa Lư với quần thể chùa chiền, hang động thờ Phật linh thiêng, những am cốc ẩn tu của những vị thiền sư đi tìm chân lý vẫn còn đó lặng lẽ cùng năm tháng. Tập thơ có ca ngợi công đức của các vị thiền sư như Thiền sư Minh Không (ngày nay vẫn còn đền thờ Lý Quốc Sư ở Hà Nội), Thiền sư Không Lộ...

Ngược dòng lịch sử để thấy giá trị của ngày hôm nay, con cháu Lạc Hồng tìm về cội nguồn qua trang sử Việt sẽ đón tìm một tia sáng bất diệt, một tinh thần bi - trí - dũng cho hôm nay và mai sau.

"Hoa Lư Thi tập" như một hồi chuông hòa trong muôn vạn tiếng chuông ngân từ quá khứ đến vị lai vọng về trong đại lễ Nghìn năm Thăng Long - Hà Nội

Đỗ Thị Hồng Cúc
.
.