Hình ảnh lũ lụt trong thơ Việt

Thứ Hai, 30/11/2020, 13:47
Những ngày qua, miền Trung đang oằn mình trong những cơn mưa lũ. Và cả nước cùng hướng về miền Trung, góp sức người, sức của trong những giờ phút khó khăn này, bằng truyền thống đoàn kết yêu thương bao đời của người Việt. Tôi bỗng chợt nhận ra, thiên tai nói chung, lũ lụt nói riêng cũng đã từng là một đề tài của thi ca từ truyền thống đến hiện đại.


Dù trong nhiều lúc, con người bị thiên nhiên lấn lướt và gây nên bao thương đau, song cuối cùng chúng ta nhất định sẽ vượt qua và chiến thắng tất cả những thử thách.

1. Từ trong tục ngữ, ca dao, ông cha ta đã đúc kết những kinh nghiệm quan sát các hiện tượng hàng ngày để đưa ra những dự báo về lũ lụt, về mưa bão: “Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão, Tháng bảy kiến đàn, đại hàn hồng thủy. Như vậy, tháng 7 âm lịch được xem là tháng có khả năng xảy ra mưa bão nhiều”. Nhưng đối với xứ ta thì mưa bão có lẽ không chỉ đến vào tháng 7 mà còn có thể rải rác và kéo dài đến tận tháng 10. Một số câu ca khác đã chứng tỏ điều này: “Ông tha mà bà chẳng tha/ Vẫn còn lũ lụt mùng Ba tháng Mười” .

Lũ lụt ở miền Trung năm 2020.

Thời trung đại, thế kỷ 15, tác giả Nguyễn Húc dưới triều vua Lê Thái Tổ (1429) đã ghi lại trận lũ hung hãn vào mùa Thu ở phủ Triệu Phong: “Gió thu nổi trận ào ào/ Phập phồng mái lá, rào rào mặt sông/ Trận mưa ập xuống hãi hùng/ Tràn khe ngập suối mịt mùng trời mây”. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18 ít thấy lũ lụt được miêu tả trong thơ. Nhưng cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 thì lũ lụt tiếp tục trở lại với mật độ khá dày đặc. 

Thi hào Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ miêu tả lũ lụt trong thơ nhiều hơn cả ở giai đoạn này: “Tỵ trước tỵ này chục lẻ ba/ Thuận dòng nước cũ lại bao la/ Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách/ Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà/ Bắc bậc người còn chờ chúa đến/ Đóng bè ta phải rước vua ra/ Sửa sang việc nước cho yên ổn/ Trời đã sinh ra ắt có ta”. (Vịnh nước lụt). 

Hai năm Tỵ mà tác giả nhắc đến là năm Quý Tỵ (1893) và Ất Tỵ (1905), cách nhau 12-13 năm, vùng Nam Hà đều có lũ lụt lớn do vỡ đê sông Hồng, mùa màng mất mát, nhiều người chết đói. Tuy thế, trong bài thơ trên, giọng điệu tác giả vẫn còn khá bình tĩnh, tự tin, nghĩ rằng có thể vượt qua được cũng như khẳng định trách nhiệm và bổn phận của mình: “Đóng bè ta phải rước vua ra…Trời đã sinh ra ắt có ta”. 

Nhưng cho đến bài “Nước lụt Hà Nam” thì giọng điệu đã chuyển thành ai oán, buồn thương, xót xa cho cuộc sống của nhân dân: “Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi/ Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi/ Gạo dăm ba bát cơ còn kém/ Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi/ Tiếng sáo vo ve chiều nước vọng/ Chiếc thuyền len lỏi bóng trăng trôi/ Đi đâu cũng thấy người ta nói/ Mười chín năm nay lại cát bồi”. 

Trong cơn hoạn nạn, nhà thơ viết những lời ân tình hỏi thăm bè bạn: “Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu/ Lụt lội năm nay bác ở đâu/ Mấy ổ lợn con rày lớn bé/ Vài gian nếp cái ngập nông sâu” (Nước lụt hỏi thăm bạn)

2. Quay trở lại không gian miền Bắc, trong thời kỳ Thơ Mới lãng mạn (1932 - 1945), mưa lũ có in dấu ít nhiều trong thơ của thi sĩ chân quê Nguyễn Bính (1918 - 1966). Mở đầu bài thơ “Định mệnh”, ông viết: “Mưa ba hôm ngập thị thành/ Khóc ba hôm cả lòng anh ngập rồi”. Từ mưa lớn của thiên nhiên đã chuyển sang mưa lũ của tâm hồn, của lòng người. 

Cũng tương tự như cảm giác trên là tâm trạng thi sĩ trong một bài thơ khác, chữ lụt xuất hiện nhưng không diễn tả về nước mà là về sương và lá, quan trọng hơn là cảm giác lũ lụt trong một tâm hồn bơ vơ, cô đơn và hoang mang: “Tôi tưởng rồi tôi quên được người/ Nhưng mà thảm lắm! Tú Uyên ơi!/ Tôi vào sâu quá! Vào xa quá!/ Đường lụt sương mờ lụt lá rơi…” (Diệu vợi). 

Sau này, các nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và Quốc Dũng cũng nói về những cơn mưa lũ trong tâm hồn qua những nhạc phẩm nổi tiếng: “Khi người yêu tôi khóc trời cũng giăng sầu. Cho từng cơn mưa lũ xoáy trong tâm hồn” (Khi người yêu tôi khóc), “Từ em đi mãi đường mây xa tít mù. Lòng anh hiu hắt giăng đầy cơn mưa lũ” (Hoang vắng). 

Sau 1975, một thi sĩ lục bát đậm chất đồng quê khác là Đồng Đức Bốn cũng tả về lũ lụt trong thơ qua sự kiện vỡ đê. Khác với những người đi trước, Đồng Đức Bốn chuyển sự quan tâm từ cuộc sống hiện thực sang cuộc sống tâm linh, đau đáu về mộ phần của những người đã khuất trong cơn mưa bão, cụ thể là phần mộ của chính cha mình: “Ối mẹ ơi vỡ đê rồi…/ Đồng ta trắng xóa cả trời nước trong/ Trâu bò thất thểu long đong/ Trên bè tre rối bòng bong xoong nồi/ Ối mẹ ơi vỡ đê rồi/ Mộ cha liệu có lên trời được không/ Sao chưa thấy chiếc thuyền rồng/ Chở con với mẹ qua giông bão này” (Vỡ đê). 

Bài thơ in dấu sự kiện lũ lụt của đời sống hiện thực năm 1986, khi hàng loạt các tỉnh miền Bắc Việt Nam bị vỡ đê cùng nhiều tỉnh miền núi và trung du cũng thiệt hại nặng nề. Trận lũ lịch sử này cũng đi vào trong một tiểu thuyết nổi tiếng của văn xuôi hiện đại Việt Nam là “Thời xa vắng” của Lê Lựu, tác phẩm gây tiếng vang lớn đương thời, được chuyển thể thành phim năm 2003 và đoạt giải Cánh diều Bạc năm 2004.

3. Tôi muốn dành một phần riêng để viết về  sự chuyển di lũ lụt từ tác phẩm văn xuôi sang thơ trong một trường hợp rất đặc biệt của văn học Việt Nam. Câu chuyện truyền thuyết nổi tiếng Sơn Tinh Thủy Tinh vốn có tự lâu đời, phản ánh sự chống chọi đương đầu và chiến thắng trước thiên tai lũ lụt của người Việt, đã được đưa vào Sách giáo khoa giảng dạy nhiều năm qua và hiện thời là một tác phẩm nằm trong chương trình Ngữ văn 6, tập 1, qua phần văn bản của GS Huỳnh Lý. 

Từ câu chuyện thần thoại này, đã có tới hai thi phẩm nổi tiếng cùng nhan đề được viết nên của hai thi sĩ tài danh trong lịch sử thi ca Việt Nam, cách nhau 41 năm. Đó là “Sơn Tinh Thủy Tinh” trong tập “Ngày xưa” (1935) của Nguyễn Nhược Pháp (1914 - 1938) và “Sơn Tinh Thủy Tinh” (1976) của Huy Cận (1919 - 2005). 

“Sơn Tinh Thủy Tinh” của Nguyễn Nhược Pháp cũng chính là bài thơ mở đầu cho tập “Ngày xưa”, gồm 165 câu thất ngôn. Những cảnh tương mưa lũ xuất hiện hai lần trong tác phẩm, lần thứ nhất là khi Thủy Tinh làm phép thuật mang tính chất trình diễn, khoe tài trước mặt Hùng Vương và Mỵ Nương: “Ào ào mưa đổ xuống như thác/ Cây xiêu, cầu gẫy nước hò reo/ Lăn, cuốn, gầm, lay, tung sóng bạc/ Bò, lợn và cột nhà trôi theo”. Và lần thứ hai mới là cuộc chiến thực sự để đòi cướp lại Mỵ Nương: “Sóng cả gầm reo lăn như chớp/ Thủy Tinh cưỡi lưng rồng hung hăng/ Cá voi quác mồm to muốn đớp/ Cá mập quẫy đuôi cuồng nhe răng/ Càng cua lởm chởm giơ như mác/ Tôm kềnh chạy quắp đuôi xôn xao”.

Sơn Tinh Thủy Tinh của Huy Cận cũng là một bài thơ dài viết theo thể thất ngôn, gồm 151 câu. Khác với Nguyễn Nhược Pháp, cuộc đối đầu giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh được Huy Cận miêu tả kỹ lưỡng hơn qua nhiều dòng thơ, mức độ trực tiếp, dữ dội và quyết liệt được nhấn mạnh nhiều hơn qua hai lần Thủy Tinh làm phép thuật: “Thuỷ tinh nổi giận phùng to má/ Phun phun mưa gió bão nổi lên/ Lũ thuỷ quái trồi lên đục phá/ Rồng nghiến răng nước réo ngày đêm/ Nước ngập khắp ruộng đồng trắng xoá/ Mà Thuỷ Tinh chưa hả lòng ghen/ Những cột sóng dựng ngang đầu núi/ Nước dâng hoài mỗi lúc một cao…”

Tương ứng với sự tàn phá của Thủy Tinh là những đoạn miêu tả tài phép của Sơn Tinh oai dũng hiên ngang, đánh bại Thủy Tinh cùng tất cả các loài yêu quái thủy tộc: “Sơn Tinh ghé vai không biết mỏi/ Nâng núi lên cao mấy ngọn sào/ Mị Nương ngồi núi như ngồi kiệu/ Nhìn Sơn Tinh yêu, phục xiết bao/ Hai chân trụ bám hai đầu núi/ Chàng nghiêng mình nhổ cụm núi lao/ Xuống sông Đà chặn dòng thác lũ/ Sông giật mình sủi bọt trắng phau/ Sông bị nghẽn đổi dòng chạy thoát/ Ngựa bất kham cương giật quay đầu/ Bao thuỷ quái rụng rời bỏ chạy/ Sơn Tinh tung lưới sắt ngang sông”.

Cuộc chiến Sơn Tinh – Thủy Tinh kết thúc, trả lại vẻ đẹp bình yên muôn thuở cho Tản Viên, cho Phong Châu. Dĩ nhiên Thủy Tinh chưa quên thù cũ, hàng năm vẫn dâng nước, nhưng không bao giờ có thể giành phần thắng. Tư tưởng của nhân dân ta qua câu chuyện có thể thấy rõ ràng: một cuộc chiến đấu bất tận để chống lại thiên tai địch họa, cuộc sống của muôn dân có thể ít nhiều bị ảnh hưởng, bị tàn phá. Song sức sống mãnh liệt, ngoan cường của người Việt luôn là điều có thật, sẽ vượt lên để chiến thắng những khắc nghiệt của thiên nhiên. 

Đó cũng là ý chí, là nghị lực và lòng lạc quan vô bờ mà cha ông ta đã gửi gắm qua thiên truyện này: “Bão lụt dứt trời quang mây tạnh/ Núi Tản Viên như ngọc xây thành/ Sông lạch chảy như thêu chỉ gấm/ Trên cánh đồng lúa mượt màu xanh (…) Năm năm Thuỷ Tinh còn hung hãn/ Dâng nước hoài băng phá ruộng đồng/ Không được Mị Nương lòng oán hận/ Đảo điên xáo động những dòng sông/ Vua Hùng phong Sơn Tinh rể quý/ Núi Tản nghìn năm trấn Biển Đông”.

Đỗ Anh Vũ
.
.