Ký ức thiêng liêng tại căn nhà 48 Hàng Ngang lịch sử
Ở trung tâm Hà Nội có ngôi nhà mà giờ đây đã trở thành di tích lịch sử thiêng liêng của dân tộc. Tại đây, Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân ta đã viết bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Năm tháng trôi đi, căn nhà đó vẫn trường tồn cùng cùng những trang sử vẻ vang của non sông đất nước còn người chủ căn nhà giờ đã ở vào tuổi 93 song trời vẫn phú cho bà sự minh mẫn đến lạ kỳ.
Bà là Hoàng Thị Minh Hồ (nhiều người vẫn quen gọi bà Bô), chủ nhân ngôi nhà 48 - Hàng Ngang, Hà Nội. Tại cuộc tiếp xúc với chúng tôi, bà không cầm được nước mắt: “Những ngày tháng ấy sao mà thiêng liêng, cao quý đến thế. Dù biết rằng, cuộc sống còn nhiều gập gềnh, mỗi người đều sinh ra và trở về với cát bụi, quy luật ấy muôn đời nay chưa ai cưỡng lại được. Nhưng những điều mình cống hiến cho cuộc sống, cho cách mạng còn để lại tiếng thơm muôn đời. Tôi nghĩ, đó cũng là thời gian hạnh phúc nhất đời mình. Có độc lập là có tất cả, tôi đã làm hết sức mình vì điều đó”.
Một thời và mãi mãi
Rồi bà lại trầm tư kể, tháng Tám năm 1945, bấy giờ nhân dân mất mùa, đói kém trầm trọng. Người chết đói đầy đường, người ăn xin không đếm xuể. Một củ khoai, củ sắn giúp đỡ cách mạng lúc này cũng đều quý hơn bao giờ hết. Một chiều cuối tháng Tám năm đó, đồng chí Trường Chinh đến tìm gặp vợ chồng bà và thông báo: “Anh chị thu xếp cho một phòng để chiều tối ta đón một ông cụ ở dưới quê lên”. Mới nghe vậy, hai vợ chồng bà liền thu dọn đồ đạc, lau sạch sẽ một căn phòng ở tầng ba và chờ đợi đến tối xem “ông cụ dưới quê” là ai. Đúng 6h ngày hôm ấy, đồng chí Trường Chinh về, đi cùng có ba người khách. Bà chỉ được biết hai trong ba người trong đó là đồng chí Trần Đăng Ninh và đồng chí Lan Sơn. Riêng “ông cụ “ thì đồng chí Trường Chinh chỉ nói vẻn vẹn một câu “ở dưới quê”. Bà Hồ nhớ rất rõ, hôm đó “ông cụ” mặc áo sơ mi, quần soóc nâu, đội mũ can bạc, chân đi dép có in hình con hổ màu trắng. Ông cụ cao gầy, trán ngời sáng, gương mặt sạm nắng nhưng dáng đi nhanh nhẹn và đặc biệt có đôi mắt rất sáng...
Ngày ấy, gia đình ông bà Bô làm nghề buôn bán vải lụa, có hẳn cả đại lý lớn kinh doanh bông, vải, sợi. Ngôi nhà 48 - Hàng Ngang do vợ chồng ông bà Bô tiến hành mua đất từ năm 1942, khi xây dựng xong, cửa hàng này được đánh giá một trong những đại lý hàng lớn nhất miền Bắc thời đó với giá trị trên 600 cây vàng. Vì vậy, khách hàng trong và ngoài nước đến Việt
Cho đến một hôm, có 3 ông khách người Mỹ đến nhà. Bà Bô nhận ra một người tên là Pasty, ông ta nói tiếng Việt khá sành. Bà vội báo tin cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, lúc đó đang làm việc ở Bắc Bộ Phủ. Khi nhận được ý kiến của của đồng chí Võ Nguyễn Giáp, bà giơ 10 ngón tay ra hiệu cho các vị khách (ý nói đợi đến 10h) và đề nghị họ ngồi chờ. Đúng hẹn, đồng chí Võ Nguyên Giáp từ Bắc Bộ Phủ về, dẫn các vị khách lên tầng 3 gặp “ông cụ”. Sau này bà hiểu rằng, “ông cụ” nói tiếng Anh, tiếng Pháp rất sành, chẳng mấy khi sử dụng người thông ngôn. Trong buổi nói chuyện hôm đó, đồng chí Võ Nguyễn Giáp có kể lại: khi đang đọc một tờ bản thảo viết tay của “ông cụ”, bất ngờ Pasty quay sang nói: “Hình như tôi đã đọc được những dòng này ở đâu đó?”. “Ông cụ” điềm đạm trả lời: “Đó là những điều mà bản Tuyên ngôn nhân quyền bất hủ của đất nước các bạn đã ghi”...
Kể về điều này, bà Bô xúc động: “Sau này tôi mới biết, bản thảo nói trên là “Tuyên ngôn độc lập” và “ông cụ” đã ở trên gác ba là Bác Hồ kính yêu. Bác đã trích dẫn logíc một đoạn trong Tuyên ngôn nhân quyền của nước Mỹ làm luận chứng vấn đề nhân quyền các nước trên thế giới cũng như Việt
“Những bữa ăn ngon nhất trong đời là ở nhà bác Bô”!
Thấm thoắt đã đến những ngày cuối của tháng Tám, đồng chí Trường Chinh cho biết, ngày 2/9 tới sẽ chính thức làm lễ độc lập tại Ba Đình. Nghe đồng chí Trường Chinh nói, vợ chồng bà Bô phân vân là đến thời điểm này các đồng chí trong TW Đảng chưa ai có bộ quần áo nào tươm tất cả. Gia đình bà kinh doanh vải sợi, lại thuận tiện trong việc may đo nên bà Bô có nhã ý may mỗi người vài bộ quần áo chuẩn bị ngày Lễ Độc lập. Riêng Bác Hồ mặc bộ ka ky màu vàng, màu quần áo Bác thường ưu thích. Hàng ngày, để bồi dưỡng sức khỏe cho các đồng chí, bà lo liệu cơm nước chu đáo, đến đặt cơm ở các hiệu nổi tiếng như Hoa Kiều (Tây
Những ngày tháng ấy thật thiêng liêng. Sau này gặp lại, đồng chí Lê Đức Thọ nói với vợ chồng bà rằng: “Những bữa ăn ngon nhất trong đời là ở nhà bác Bô. Có bát cháo, bát cơm ngon miệng trong bối cảnh đó đâu có dễ dàng gì.”
Sau khi ở trên gác 3 được hai ngày, Bác đề nghị bà thu xếp một phòng ở tầng 2. Bác nói ở trên đó buồn, Bác muốn sống cùng anh em, muốn xuống ở cùng với anh em cho ấm cúng. Từ đó, căn phòng làm việc ở gác hai luôn đỏ đèn rất khuya.
Ngày độc lập 2/9 đã đến, bà thức dậy từ lúc rạng sáng chuẩn bị cơm nước cho Bác và các đồng chí TW Đảng chu đáo. Hôm ấy, Quảng trường Ba Đình rực rỡ cờ và hoa. Nắng thu vàng, trời thu cao xanh ngắt. Người người nô nức đổ về Quảng trường Ba Đình. Giây phút ấy sao mà thiêng liêng. Bà Bô xúc động nhớ lại hình ảnh “Trên đài cao, Bác Hồ sang sảng đọc Bản “Tuyên ngôn độc lập”. Hạnh phúc, sung sướng vô cùng. Trong niềm xúc động khôn tả, tôi lại nghĩ đến hình ảnh Bác những đêm không ngủ đăm chiêu bên ngọn đèn dầu ngồi thảo bản Tuyên ngôn. Tôi đâu có ngờ, ông cụ dáng cao gầy mà đêm đêm chong đèn thức đánh máy trong căn phòng tầng 2 nhà mình chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi đâu có ngờ Bản Tuyên ngôn bất hủ được thế giới biết đến, Bản tuyên ngôn khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra ký nguyên mới cho dân tộc lại được ra đời trong những ngày sống đơn sơ và giản dị ở căn nhà này. Tự nhiên tôi thấy xúc động vô cùng, hạnh phúc quá, bất ngờ quá. Và tôi đã khóc. Tôi đã khóc trước giờ phút thiêng liêng ấy.”
Bác Hồ ở tại ngôi nhà 48 - Hàng Ngang đến 27/9/1945, một số đồng chí khác thì lâu hơn (đồng chí Võ Nguyên Giáp ở đến cuối năm 1945, đồng chí Nguyễn Khánh Toàn ở đến cuối 1946). 7h sáng 30 Tết năm 1946, Bác cùng đồng chí Khuất Duy Tiến đến chúc Tết gia đình bà Bô. Bác lên thăm lại phòng ở trước đây của mình, thăm chiếc bàn làm việc, nơi đặt bàn máy chữ...
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng
Trong thời gian trước và sau cách mạng Tháng Tám, gia đình bà đã ủng hộ cho cách mạng tổng cộng 5147 lạng vàng. Đó cũng là phần lớn số vàng mà hai vợ chồng bà có được nhờ tích cóp bằng việc buôn bán vải vóc. Trước cách mạng, khi nhận 100 lạng vàng, đồng chí Nguyễn Lương Bằng (khi đó là Trưởng Ban Tài chính của Đảng) xúc động nói: “Anh chị đóng góp cho cánh mạng tận tình quá, tài chính của Đảng hiện chỉ có vẻn vẹn 4 đồng tiền Đông Dương”. Sau Tổng khởi nghĩa, bà ủng hộ 20 vạn, trị giá 500 cây vàng. Cách mạng thành công, khi quân Tưởng tràn vào miền Bắc nước ta, bà ủng hộ hàng trăm lạng vàng để Bác thương lượng, hòa hoãn với chúng. Khi Bác Hồ phát động “Tuần lễ vàng”, gia đình bà ủng hộ 117 lạng. Ngoài ra, bà thường xuyên đến các gia đình đồng nghiệp vận động họ ủng hộ tiền, vàng.
Kể về sự giúp đỡ nhiệt tâm này, bà Bô khẳng định: Làm sao quên những gia đình tư sản yêu nước, gia đình tiểu tư sản cùng nhau gom góp tiền vàng mà chẳng một chút nề hà, làm sao quên những người dân nghèo thành thị, những gia đình trong cơn thiếu đói vẫn chắt chiu từng nắm gạo bỏ vào “hũ gạo tiết kiệm”. Trong đêm kết thúc “Tuần lễ vàng”, bà đã không ngần ngại bỏ tiền mua đấu giá bức ảnh Bác Hồ với giá 1 triệu 58 vạn đồng Đông Dương. Với tình cảm của một người dân đối với Bác, bà đã quyết tâm mua và tặng cho UBND Thành phố Hà Nội.
Với những đóng góp nói trên, Nhà nước đã trao tặng cho hai vợ chồng bà mỗi người một Huân chương Độc lập Hạng Nhất