Hồ Chí Minh và sự hợp tác Việt - Mỹ hai năm 1944 - 1945

Thứ Sáu, 02/09/2005, 08:12

Trên cơ sở phân tích diễn biến cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2, với tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng sớm nhận thấy cục diện chiến tranh thế giới đang nghiêng về phía Đồng minh chống phát xít.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời thấy luôn được vai trò của Mỹ trong Đồng minh chống Nhật (và trong một chừng mực nào đó chống cả chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp) để giành độc lập, Người đã tìm cách hợp tác với Mỹ, dẫu rằng sự hợp tác này là "có điều kiện" như Đảng đã khẳng định.

Hai lần tới Côn Minh tìm sự hợp tác

Trong chuyến sang Côn Minh, Trung Quốc, lần thứ nhất để tiếp xúc với người Mỹ, vào năm 1942-1944, thông qua tướng Trương Phát Khuê của chính quyền Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã làm quen với một số sĩ quan Mỹ đang hoạt động ở Trung Quốc, nhờ chuyển tới Đại sứ Mỹ ở Trùng Khánh yêu cầu Đồng minh giúp Việt Nam chống Nhật, giúp Việt Nam giành độc lập. Tuy nhiên, yêu cầu này đã không nhận được bất cứ một sự ủng hộ nào. Lý do, theo Thiếu tá Archimedes L.A.Patti, Chỉ huy Cơ quan Phục vụ Chiến lược mà thực chất là Cơ quan tình báo (Office Strategic Services-OSS) của Mỹ tại Trung Quốc thì, “lúc đó OSS ở Trung Quốc đánh giá cao vốn quý của ông Hồ trong lĩnh vực công tác tình báo và chiến tranh du kích. Nhưng người Pháp và người Trung Hoa ở Trùng Khánh đã hoạt động chống lại việc người Mỹ muốn sử dụng Việt Minh".

Khoảng cuối năm 1944, khi một máy bay của không quân Mỹ bị rơi tại một khu rừng gần thị xã Cao Bằng trong lúc đang bay trinh sát quân Nhật tại Việt Nam, viên Trung úy phi công William Shaw đã được lực lượng tự vệ của Việt Minh cứu giúp, đưa về căn cứ gặp Hồ Chí Minh. Thời gian này, Nhật - Pháp thường bao vây chặt biên giới Việt - Trung, cho nên, việc nuôi dưỡng viên phi công Mỹ ở giữa rừng Việt Bắc là một việc không đơn giản. Tuy nhiên, nhận thấy đây là điều kiện tốt để tranh thủ sự hợp tác của Mỹ, Hồ Chí Minh đích thân đưa trung úy phi công trao cho Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại Côn Minh. “Với việc làm đầy thiện chí này, Hồ Chí Minh đã tạo được cảm tình của người Mỹ. Qua đó, Người cũng đã tạo cho mình chiếc chìa khóa mở cánh cửa dẫn tới AGAS (Air Ground Aid Service - Ban Không trợ Mặt đất) để tiếp xúc với Chennault, tướng chỉ huy Quân đoàn Không lực thứ 14 của Mỹ ở Côn Minh" . (Hồ Chí Minh sang Côn Minh lần thứ 2 vào tháng 2/1945 và đến ngày 29/3/1945 thì gặp Chennault - TG).

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), mọi tin tức tình báo của Mỹ ở Đông Dương bị cắt. Một số nhóm tình báo của Đồng minh tại Đông Dương phần bị bắt, phần rút lui để thăm dò. Bị cắt đứt mọi nguồn thông tin, Bộ Tổng tham mưu Mỹ tại Trung Quốc buộc phải cho phép OSS tuyển người Việt Nam. Và thế là Trung úy Mỹ Charles Fenn, theo sự giới thiệu của AGAS, ngày 17/3/1945, đã tìm đến gặp Hồ Chí Minh tại Côn Minh để bàn về việc hợp tác giữa Việt Minh và quân Đồng minh. Ngày 27/4/1945, trước khi rời Trung Quốc trở về Cao Bằng, tại một ngôi làng nhỏ ở gần Tĩnh Tây, Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã gặp Thiếu tá A.Patti. Trong buổi gặp gỡ, Người đã nói với A.Patti rằng, người Mỹ đừng phiền ngại gì. Người thông cảm hoàn toàn thái độ của Mỹ và sẵn sàng đứng về phía người Mỹ chống phát xít.

Sau này, trong cuốn "Tại sao Việt Nam", A.Patti đã viết: “Ông Hồ là một người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình, một con người biết điều và tinh tế. Tôi cũng cảm thấy có thể tin cậy ông như một bạn đồng minh chống người Nhật. Tôi biết mục tiêu cuối cùng của ông là giành được sự ủng hộ của Mỹ đối với sự nghiệp của nước Việt Nam tự do và thấy rằng ước muốn ấy không trái ngược với chính sách của Mỹ. Từ một quan điểm thực tiễn, ông Hồ và Việt Minh hiện ra như một câu giải đáp cho vấn đề trước mắt của tôi là tiến hành các hoạt động ở Đông Dương”.

Cây kiên nhẫn sẽ nở quả vàng!

Những cuộc hội đàm giữa Hồ Chí Minh với các nhà quân sự Mỹ đã đem lại một số kết quả tích cực. Các cán bộ Việt Minh ở Côn Minh đã viết truyền đơn bằng tiếng Việt, gửi đến không quân Mỹ để đem rải ở miền Bắc Việt Nam. Trong 2 lần rải truyền đơn có đến 8 vạn tờ. Những kết quả đạt được trong chuyến đi này là làm cho uy tín của Việt Minh tăng lên, trên thực tế và phần nào về danh nghĩa, Việt Minh đang đứng về phe Đồng minh chống phát xít. Cũng qua những cuộc tiếp xúc với người Mỹ ở Côn Minh, chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ về vật chất từ phía Mỹ: Người Mỹ đã cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men, điện đài, phái nhân viên người Mỹ đi cùng Hồ Chí Minh về Việt Nam để sử dụng điện đài, giúp ta huấn luyện, sử dụng thiết bị thông tin liên lạc.--PageBreak--

Theo đó, AGAS đã lập được mạng vô tuyến điện từ Hà Nội đến Sài Gòn theo kế hoạch của OSS. Lực lượng tình báo Mỹ cũng đã 2 lần thực hiện thành công các chuyến nhảy dù xuống căn cứ cách mạng Việt Nam. Những người Mỹ đến đây vừa huấn luyện cho một số cán bộ quân sự ta về kỹ thuật sử dụng vũ khí mới và chiến thuật du kích, vừa làm nhiệm vụ liên lạc với các cơ quan Mỹ ở Côn Minh. Không chỉ có vậy, Hồ Chí Minh còn cho thành lập một đơn vị gọi là bộ đội Việt - Mỹ hay còn gọi là nhóm “Con nai” (Deer) thuộc OSS do Thiếu tá Thomas làm Tham mưu trưởng dưới quyền chỉ huy của ông Đàm Quang Trung. Điều đáng nói là, quan hệ giữa những người Mỹ trong nhóm với người Việt hết sức thân mật và gần gũi. Thậm chí có người đã nói “người Mỹ và người Việt Nam đã trở thành những đôi bạn thân thiết, họ chung sống với nhau rất hữu nghị, sát vai nhau làm việc”. Riêng về Hồ Chí Minh người Mỹ khẳng định là một người yêu nước đáng tin cậy và đáng được ủng hộ hoàn toàn”.

Ngay trong những ngày tháng Tám lịch sử, Thiếu tá Thomas và những người Mỹ trong nhóm “Con nai” cũng đã luôn sát cánh cùng đội Quân giải phóng Việt Nam và họ chỉ chấm dứt sứ mệnh của mình vào ngày 9/9/1945, khi Việt Nam đã tuyên bố độc lập được 1 tuần. (Theo thống kê, trong 7 tuần hợp tác với Việt Minh, nhóm “Con nai” của Thomas và các nhân viên người Mỹ đã bỏ ra 4 tuần để huấn luyện cho khoảng 200 người được lựa chọn kỹ lưỡng để làm cán bộ lãnh đạo tương lai cho quân đội của Tướng Võ Nguyên Giáp về việc sử dụng những vũ khí Mỹ mới nhất - TG).

Cũng trong thời gian người Mỹ còn ở Việt Nam, ngày 25/7/1945, Hồ Chí Minh đã nhờ OSS chuyển cho nhà chức trách Pháp đề nghị chính thức của Việt Minh liên quan đến một số vấn đề như: Phải có một cuộc phổ thông đầu phiếu để bầu ra một nghị viện cai trị đất nước, có một toàn quyền người Pháp làm chủ tịch cho đến lúc nền độc lập được trao lại cho chúng tôi, vị chủ tịch này sẽ lựa chọn một nội các hoặc một nhóm những cố vấn được nghị viện chấp nhận, những quyền hạn cụ thể của tất cả các viên chức trên có thể được thảo luận trong tương lai; nền độc lập sẽ được trao cho đất nước này trong một thời hạn tối thiểu là 5 năm và tối đa là 10 năm; những tài nguyên thiên nhiên của đất nước phải được trả cho nhân dân sau khi đền bù công bằng cho những người hiện hữu. Nước Pháp sẽ có được những nhượng bộ kinh tế; tất cả các quyền tự do mà Liên Hiệp Quốc đã khẳng định phải được trao quyền cho người Đông Dương; việc bán thuốc phiện phải bị cấm chỉ.

Tuy nhiên, để có được sự hỗ trợ của Mỹ thì, trong khả năng của mình, phía Việt Minh cũng đã giúp cho Mỹ không ít việc như cung cấp những thông tin về khí tượng, cứu những phi công Mỹ rơi trên đất Việt Nam. Theo tờ Times số ra ngày 12/9/1969, trong thời gian này, những người của Hồ Chí Minh đã cứu giúp được 17 phi công Mỹ. Còn A.Patti, thì cũng rất hài lòng vì những bản tin đầu tiên mà phía Việt Minh cung cấp đã “có ích để nhận biết một vài đơn vị của Sư đoàn Nhật Bản 37, chỗ đóng quân của nó chỉ mới cách đây vài ngày và tên của một vài sĩ quan cao cấp”. Patti còn cho biết thêm: “Mấy ngày sau đó, tôi nhận được qua đường dây một bản báo cáo thứ 2 của ông Hồ với nhiều tin tức quân sự hơn, lần này báo cáo đã cung cấp những chi tiết về việc xây dựng công sự mới của Nhật và những sự cải tiến công sự hiện có do Pháp xây dựng ở vùng Cao Bằng và trên đường về Hà Nội. Việc xác định lần đầu tiên những đơn vị của Quân đoàn 38 của Nhật và đặc biệt những đơn vị của Sư đoàn 32 ở vùng biên giới Cao Bằng đã gây nên một hứng thú to lớn ở Phòng Tác chiến của chúng tôi cũng như ở cấp chiến trường...".

Tới đây, để khép lại bài viết xin được dẫn lại nhận định của GS.NGND. Vũ Dương Ninh - nguyên Chủ nhiệm Khoa Quốc tế học - Đại học Quốc gia Hà Nội trên Tạp chí Xưa & Nay rằng, mối quan hệ giữa mặt trận Việt Minh do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu với những sĩ quan Mỹ thuộc tổ chức OSS từ Côn Minh, Trung Quốc tới cùng phối hợp đấu tranh chống phát xít Nhật ở Đông Dương là rất gắn bó. Trong điều kiện gian khổ của vùng rừng núi chiến khu Việt Bắc, các sĩ quan Mỹ là những người ngoại quốc duy nhất tham gia huấn luyện các đội vũ trang cách mạng và họ cũng là những người ngoại quốc có mặt sớm nhất tại Hà Nội trong vài ngày sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa bùng nổ và giành thắng lợi. Trong những ngày này, nhiều bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được gửi đến Tổng thống, Quốc hội và nhân dân Mỹ với những đề nghị thiện chí và hữu nghị. Tiếc rằng, chính sách đối ngoại của Chính phủ Truman và những người kế nhiệm đã chọn một lối đi khác để đến kết cục của Hiệp định Paris 1973 sau nhiều năm chiến tranh ác liệt

Đỗ Công Định
.
.