Người Anh hùng sông Mã từng được Bác Hồ tặng huy hiệu
Sông Mã chảy qua những tán rừng miền tây Thanh Hóa lắm thác nhiều ghềnh, đây cũng là một dòng sông nổi tiếng đã đi vào thơ ca, nhạc họa, nhưng cũng từng là nơi thử sức của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Mấy chục năm trước trên dòng sông này, chàng thanh niên Hà Văn Dân dũng cảm cứu tài sản cho Nhà nước giữa dòng nước dữ. Giờ đây ký ức về một thời vẫn còn nguyên vẹn trong ông và những người dân lành hiền sống bám trụ trên dòng sông này.
Dũng cảm chinh phục dòng sông
Các thanh niên, nông dân trong khu vực ven bờ (khu vực miền tây Thanh Hóa) vẫn chinh phục dòng sông Mã để đánh cá và chở luồng thuê kiếm sống. Nhưng mấy chục năm trước ông Hà Văn Dân, người dân tộc Thái hiện đang sống ở Khu 6, thị trấn Hồi Xuân (huyện Quan Hóa - Thanh Hóa) đã nổi tiếng là "kình ngư" trên sông. Là thương binh bậc 3/4, hiện nay ông đã bước qua tuổi 70, song vẫn được coi là biểu tượng của sức mạnh con người chinh phục thiên nhiên trong vùng. Vì sao vậy? Bà con nông dân nơi đây cho biết, ít ai làm được như ông ngày đó, với tài ngụp lặn giúp đưa bè luồng vượt qua nhiều ghềnh thác dữ dằn, nguy hiểm.
Câu chuyện của ông Dân đưa tôi ngược dòng thời gian về thời chống đế quốc Mỹ. Khi đó, rừng luồng xứ Thanh rất được coi trọng. Mỗi cây luồng, giống như viên đạn, được đưa xuôi dòng sông Mã ra mặt trận để làm lán, hầm, công sự cho bộ đội ta. Khi mới 5 tuổi Hà Văn Dân đã mồ côi cha mẹ. Ông ngoại đã đem đứa cháu tội nghiệp về nuôi, khi ông ngoại mất thì những người dân trong vùng lần lượt cưu mang Dân. Từ năm 16 tuổi, Dân theo những người dân đi khai thác luồng trên rừng và chẳng bao lâu được nhận vào làm việc ở Trạm Lâm nghiệp Quan Hóa. Từ đó, Dân đã học cách buộc dây, xoắn lạt, kết bè, chèo thuyền, chống bè và trở thành một chàng trai có nhiều kinh nghiệm. Nhờ những nỗ lực của bản thân, sự dũng cảm, sự tôi luyện và "bắt bệnh" được con sông nên ông được nhiều người nể.
Đơn vị của ông Dân ngày đó vừa có nhiệm vụ khai thác, thu gom cây luồng, gỗ đồng thời phải kiêm việc vận chuyển về xuôi an toàn. Ngày đó, việc đi lại bằng đường bộ rất khó khăn. Nhân viên, công nhân Trạm Lâm nghiệp Quan Hóa sau khi khai thác, đưa luồng và gỗ đi theo các con suối nhỏ, hoặc đường mòn rồi "tập kết" bên bờ sông Mã. Tiếp đó, luồng và gỗ được chằng buộc thành bè "tập kết" về bến sông thuộc thị trấn Hồi Xuân (huyện Quan Hóa). Sau đó, một tổ vận tải đưa xuống Cửa Hà (huyện Cẩm Thủy). Mỗi tổ vận tải chừng 10 đến 12 người, thường tranh thủ ăn cơm rất sớm, đùm theo cơm nắm rồi xuôi bè. Mái chèo là cây luồng dài khoảng 10m. Mỗi bè chằng buộc được khoảng 12 khối gỗ, luồng (khoảng 600 cây gỗ nhỏ và luồng). Dịp nước cạn thì việc đi lại rất khó khăn, phải mất 15 ngày. Nhiều khi nước quá cạn, những mỏm đá ngầm sắc nhọn lởm chởm lộ ra, khiến bè mắc kẹt không đi nổi và phải chờ có mưa. Dịp nước to và không gặp nạn mất 4 ngày.
Nhớ lại thời trai trẻ, ông Dân tâm sự: "Người chở luồng trên sông Mã mà không có cái máu lửa thì không đi được. Tức là phải liều, chẳng màng sống chết. Tôi thuộc loại người không sợ chết. Nên tôi xác định rồi, làm được gì giúp cho đơn vị, đóng góp cho đất nước đánh đế quốc Mỹ thì tôi sẽ gắng hết sức, không màng hi sinh. Sông Mã thì cậu biết rồi đó, nó chảy qua Sơn La của ta, lại vòng sang Lào rồi đổ vào miền tây Thanh Hóa. Đến đây, nước chảy xiết khủng khiếp!".
Theo tìm hiểu, sông Mã bắt nguồn từ tỉnh Điện Biên, chảy sang tỉnh Sơn La, rồi qua nước bạn Lào, sau đó uốn mình qua các dãy núi tiếp tục chảy vào Việt Nam qua cửa khẩu Tén Tằn (huyện Mường Lát). Từ Tén Tằn đến huyện Bá Thước có tới hàng trăm ghềnh nước hung dữ, sẵn sàng nuốt chửng tất cả người và những gì trôi trên dòng nước. Điều đó càng khiến cho bà con trên sông phải vật lộn với muôn vàn khó khăn để tồn tại. Nhiều đoạn đá ngầm nằm dưới lòng sông đã trở thành nỗi khiếp sợ của dân bè mảng. Những khó khăn ấy không làm nản lòng Hà Văn Dân. Chiến công đầu tiên của ông Dân là vào một ngày cuối năm 1965. Lúc đó, sau bữa cơm chiều, đang ngồi nghỉ thì cả nhóm cùng nghe tiếng ầm ầm, một bè gỗ và luồng 15 khối đứt dây, trôi ra giữa dòng nước chảy xiết. Ông Dân hét lên: "Bè trôi rồi, anh em mau cứu bè".
Ông Dân hồi tưởng: "Lúc đó, anh đồng nghiệp của tôi là Hà Văn Dụng nhảy xuống sông bơi đuổi theo bè, tôi bám chặt đầu bè. Tôi bảo ông Dụng lấy đoạn luồng cắm xuống, giữ bè rồi tìm cách đưa bè vào bờ. Khi neo được vào gần bờ, tôi thúc giục bạn chạy về Trạm Lâm nghiệp gọi thêm người ra tiếp sức, còn mình ở lại giữ bè".
Lúc ấy mưa lớn cũng ập xuống, nước sông cuồn cuộn. Ông Dụng và đồng nghiệp không thể đưa thuyền sang bên kia sông để giúp ông Dân. Họ thấp thỏm, lo lắng đứng ở bên này mà lòng dạ đau thắt. Ông Dân ở lại coi bè suốt đêm đến sáng hôm sau. Mùa đông lạnh buốt, ngâm mình tới lúc gần kiệt sức thì đồng nghiệp đến, cứu được người và tài sản, đưa vào bờ an toàn. Nhiều người từng thắc mắc, lúc đó liệu ông có sợ nước có thể đẩy cả ông và bè trôi? Ông Dân bảo: "Lúc đó tôi buông tay để bè trôi xuống đoạn thác Chiếng thì tất cả sẽ tan tành, cây luồng tự do trôi. Khối tài sản ở trên bè cũng sẽ mất. Tôi không thể để mất tài sản của đơn vị và Nhà nước".
Tấm gương cứu bè ấy của ông Dân đã được viết lên Báo Tiền phong, Bác Hồ đã đọc bài, biết được tấm gương thanh niên dũng cảm nên đã gửi tặng Hà Văn Dân huy hiệu để động viên. Người thanh niên dân tộc Thái 18 tuổi ngỡ ngàng xúc động.
Con người và khả năng kỳ diệu
Vì muốn được ra chiến trường cầm súng diệt giặc, nhưng lãnh đạo đơn vị bảo: Việc vận chuyển gỗ, luồng cũng quan trọng như trực tiếp cầm súng. Thế là ông Dân ở lại tiếp tục đi bè. Ngày đó máy bay địch kiểm soát tuyến sông Mã nghiêm ngặt. Trạm Lâm nghiệp Quan Hóa có người hi sinh, nhưng không ai chịu buông tay chèo. Bị bắn phá ban ngày, nhiều lần đoàn đi ban đêm. Tuổi trẻ của ông Dân cống hiến cho ngành còn được ghi nhận ở một trường hợp khác mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc. Đó là khoảng giữa tháng 10/1966. Hôm ấy, do vận chuyển ban ngày nên tổ bè bị máy bay địch phát hiện. Máy bay đuổi theo bè, quyết giết hại những công nhân này. Địch bắn đứt dây mây níu các thân luồng. Luồng trôi tứ tung.
Ông Dân kể: "Lúc ấy đạn địch bắn veo véo trên đầu, rất nguy hiểm. Anh em chúng tôi tự động viên nhau phải đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Tôi cùng mấy đồng nghiệp mau chóng đưa bè sát vào bờ, núp dưới những tán cây rồi bơi ra kéo chụm những cây luồng vào. Lần thứ ba bơi ra, tôi định cứu chiếc bè cuối cùng thì mắt hoa lên, tai ù đặc. Tôi bị đạn bắn vào mặt. Máu chảy nhòe. Khắp cơ thể đau nhừ, tôi vội chụm tay bịt lại, gượng bò ra bờ sông xem có còn thấy bè không, hay lại bị đạn bắn tan cả rồi. Thấy còn cả, tôi mới nằm yên cho đỡ đau".
Lần cứu bè này ông Dân bị mất 12 răng, vỡ xương hàm, đa chấn thương, được đưa về điều trị. Sau mấy tháng bình phục, đơn vị định đưa ông về công tác ở Phòng Hành chính. Ông Dân đề nghị cấp trên tiếp tục cho đi bè và được chấp thuận. Từ đó trở đi, ông đúc rút được nhiều kinh nghiệm hơn. Ông Dân cùng đồng nghiệp đã trải qua hàng chục chuyến vượt thác ghềnh và giúp đưa hàng vạn cây luồng, hàng trăm khối gỗ vượt sông về xuôi. Với nhiều công lao đóng góp cho ngành, tháng 12/1973 ông Hà Văn Dân được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và vinh dự được thay mặt hàng triệu thanh niên Việt Nam tham dự Festival Thanh niên Quốc tế tổ chức tại Cu Ba…
Anh hùng Hà Văn Dân chia sẻ: "Chiến thắng sự khắc nghiệt của thiên nhiên là một lẽ, nhưng cùng lúc đó còn phải đối mặt với đế quốc. Đế quốc bắn phá rất ác liệt. Nhưng tất cả những điều đó đều chứng tỏ sức mạnh của con người là vô biên. Giờ người dân đi bè trên sông cũng có nhiều kinh nghiệm lắm. Cuộc sống dạy họ phải biết cách thích nghi với những điều kiện khốc liệt nhất để tồn tại. Đến giờ tôi vẫn nghĩ, sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã chứng tỏ con người luôn có sức mạnh vượt nhiều lần con người có thể nghĩ tới".