Tâm thức viết về lịch sử

Thứ Sáu, 31/05/2019, 08:31
Tôn trọng lịch sử ở những điểm mấu chốt và rõ ràng. Có những vấn đề, sự kiện lịch sử đã được coi là sự hiển nhiên và chính xác thì nhà văn cần có sự tôn trọng khi viết về nó. Người viết có thể hư cấu nhiều điều, thậm chí có một cái nhìn khác hẳn nhưng những cột mốc lịch sử, những vấn đề đã được coi là tâm thức của dân tộc được số đông cộng đồng chấp nhận thì người viết phải tôn trọng...


Những năm gần đây, có thể do những diễn biến phức tạp về cương vực lãnh thổ hoặc theo một chu kì vận động tự nhiên, lịch sử trở thành một đề tài được nhiều người cầm bút quan tâm. Đã có nhiều thành tựu văn học về đề tài này mà bước ngoặt có thể nói đến hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, khi nhà văn viết một loạt truyện ngắn về lịch sử với một cảm quan mới. Sau Nguyễn Huy Thiệp đã có nhiều nhà văn theo đuổi đề tài này và có những thành công nhất định.

Đề tài lịch sử tất nhiên đã được sự quan tâm từ lâu của giới cầm bút,. Ngay từ giai đoạn trước năm 1945 đã có  nhiều các nhà văn viết về lịch sử như Khái Hưng, Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai, Nguyễn Huy Tưởng… rồi bỗng một quãng thời gian, đề tài lịch sử dường như bị chùng xuống, nhường sự quan tâm cho những đề tài có thể được coi là mang tính cấp thiết hơn hoặc được sự quan tâm, đầu tư nhiều hơn.

Và như tôi đã nói từ đầu, trong quá trình vận hành của xã hội và dân tộc, khi những vấn đề liên quan tới chủ quyền dân tộc được đưa ra một cách gay gắt và cấp thiết như bây giờ thì sự nhìn nhận về lịch sử và viết về nó dường như trở thành một dòng rất mạnh. Đó có thể là một cách lí giải về sự “hồi sinh” hoặc nhu cầu tự thân của văn học viết về lịch sử. Hoặc có một cách lí giải nữa cho sự biến chuyển này, rằng ở thời điểm hiện tại, khi các đề tài của văn học được nhìn nhận một cách công bằng và khách quan hơn, nhất là ở tâm thế chính thống thì rõ ràng lịch sử là một nguồn hấp dẫn và cấp thiết.

Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.


Trong một thời gian khá dài, dù không có bất cứ sự hạn chế nào nhưng dường như đề tài lịch sử có khoảng trống nhất định. Hoặc các nhà văn viết về đề tài lịch sử theo một tâm thức cũ mà ở thời điểm hiện tại, những yêu cầu về đổi mới văn chương và cách nhìn nhận về lịch sử đòi hỏi phải thay đổi. Các nhà văn hoặc viết bằng cảm quan mới, cách tiếp cận mới thì những câu chuyện lịch sử dường như đã bị ngủ quên hoặc nhạy cảm hoặc không đáp ứng đủ nhu cầu đã được đánh thức dậy, mở ra những chiều kích mới, khát khao mới thì một làn sóng quan tâm tới lịch sử và viết về nó càng bùng lên mạnh mẽ.

Là một người sáng tác, tôi muốn đưa ra những quan niệm của riêng mình khi viết đề tài lịch sử.

1.Tôn trọng lịch sử ở những điểm mấu chốt và rõ ràng. Có những vấn đề, sự kiện lịch sử đã được coi là sự hiển nhiên và chính xác thì nhà văn cần có sự tôn trọng khi viết về nó. Người viết có thể hư cấu nhiều điều, thậm chí có một cái nhìn khác hẳn nhưng những cột mốc lịch sử, những vấn đề đã được coi là tâm thức của dân tộc được số đông cộng đồng chấp nhận thì người viết phải tôn trọng. Vì nếu các vấn đề căn bản của lịch sử không được tôn trọng thì người đọc sẽ bị mất phương hướng, không biết lịch sử mình đã từng biết và những gì nhà văn hư cấu nên có sự khác biệt thế nào.

Ví dụ trận đánh của Vua Quang Trung năm Kỉ Dậu (1789) quét sạch quân Thanh ra khỏi bờ cõi và tướng giặc là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự vẫn là sự thật rõ ràng. Các nhà văn không thể hư cấu rằng Vua Quang Trung thua trận đó được và Sầm Nghi Đống chạy thoát về nước.

Nhà văn có thể biến hoá về cách đánh của Vua Quang Trung, tâm lí của ông khi ra trận hoặc diễn biến cái chết của Sầm Nghi Đống nhưng hai sự kiện mấu chốt kể trên thì không thể thay đổi được. Nhà văn có thể có những khác biệt theo cách nhìn, quan điểm nhưng nếu xoay ngược 180 độ thì đó sẽ là một tình thế hết sức nguy hiểm. Lịch sử không phải lịch sử nữa. Người ta còn không biết tin vào ai nữa và từ đó, sự tiếp nhận lịch sử qua văn học sẽ mất phương hướng, có hại cả cho lịch sử và đối tượng nó tác động đến. Nhà văn có thể trở thành người phản bội lịch sử và chính dân tộc mình.

2. Lịch sử là niềm cảm hứng, chỗ dựa để cho sự sáng tạo. Tôi nói điều này vì có rất nhiều vấn đề, nhiều nhân vật có nguồn tư liệu rất dồi dào, nhà văn dựa vào đó để sáng tạo những sản phẩm nghệ thuật với cái nhìn của văn học chứ không sao chép lịch sử, mô phỏng nó. Nếu người cầm bút đơn thuần sao chép lịch sử thì anh ta đã giẫm chân vào người viết sử và thứ nữa, quá trình sáng tạo sẽ trình thụ động, nhăm nhăm copy, chép lại lịch sử và chắc chắn người đọc cũng không quan tâm tới những tác phẩm mang tính bản sao vụng về này.

Sao chép lịch sử vừa đánh mất sự sáng tạo của nhà văn, vừa không kích thích được độc giả quan tâm, tìm hiểu lịch sử theo một tâm thế mới và vô hình trung không có lợi cho sự truyền bá tư tưởng hay khơi gợi tìm hiểu những hấp dẫn mà bất cứ nguồn sử liệu nào cũng tiềm tàng. Tôi ví dụ một nhân vật lịch sử gây nhiều tranh luận là công chúa An Tư.

Trong chính sử chỉ có vài dòng vắn tắt rằng nàng được gả cho Thoát Hoan làm kế hoãn binh trong tình thế hiểm nghèo của đất nước, nhưng thân phận nàng thế nào, cuộc hôn phối đầy tính toán và có thể là bi kịch này sau đó ra sao thì vẫn là một khoảng trống mờ mịt. Chính câu chuyện này là mảnh đất màu mỡ và là niềm cảm hứng dồi dào cho các nhà văn sáng tạo. Chỉ cần vài dòng vắn tắt của lịch sử cũng có thể dựng những bộ tiểu thuyết lớn.

3. Nhìn nhận lịch sử theo một cảm quan riêng của người viết. Điều này dường như mâu thuẫn với điều thứ nhất nhưng lại không phải. Nó là sự bổ sung hỗ trợ cho nhau. Người viết vừa tôn trọng những điểm mấu chốt của lịch sử vừa có cái cách nhìn riêng của mình. Tôi ví dụ nhân vật Trần Khánh Dư trong thời đại nhà Trần là một người rất tài ba trong trận mạc nhưng cũng đầy tai tiếng trong tình ái.

Tôi tôn trọng những điều căn bản về ông nhưng khi chính sử chép lại chuyện Trần Khánh Dư lợi dụng chức vụ của mình ở biên ải để buôn nón Ma Lôi thì trong tiểu thuyết “Sương mù tháng Giêng” của mình, tôi nhìn nhận vấn đề này theo một quan điểm riêng. Tôi (Uông Triều) cho rằng việc buôn bán như vậy chứng tỏ Trần Khánh Dư là một nhân vật rất thức thời, đã biết tận dụng (lợi dụng) tình huống để cải thiện cuộc sống của mình chứ không thụ động chỉ chờ đợi bổng lộc của triều đình.

Ngoài việc chê trách ông đã lợi dụng địa vị của mình để kiếm lợi thì rõ ràng viên tướng từng đánh trận Vân Đồn lừng danh - tiêu diệt đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, tạo bước ngoặt căn bản trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ ba cũng rất thạo nghề buôn bán và nắm được quy luật thị trường!

4. Lịch sử để soi chiếu hiện tại. Rõ ràng có rất nhiều những vấn đề lịch sử được lặp lại ở thời hiện đại và chúng ta có thể học tập từ nó. Ví dụ vấn đề bang giao với phương Bắc, vấn đề tiệt trừ tệ tham nhũng hối lộ, các tiền nhân trong qua khứ đã thực hiện những việc này nhiều lần, lúc thành công, lúc thất bại và chúng ta có thể phân tích sự việc đó để học tập. Thậm chí tôi cho rằng những thất bại của lịch sử nhiều khi còn đáng học tập hơn vì nó giúp ta tránh được những vết xe đổ đã nhìn thấy trước. Ví dụ vấn đề cấm đạo của nhà Nguyễn đã từng gây ra những hậu quả khôn lường và dai dẳng với lịch sử. Hay cũng là vấn đề từ chối đổi mới, mở cửa khi những trí thức như Nguyễn Trường Tộ nêu ra đã không được ủng hộ đã góp phần làm suy yếu nhà Nguyễn vì sự bảo thủ của mình.

Nhà văn nên ý thức được điều này, câu chuyện của lịch sử là bài học có ích cho hậu thế, anh ta nhấn mạnh những điểm cần chú ý, phân tích, mổ xẻ dưới cảm quan văn học và người đọc có thể thấy được tác dụng của lịch sử và vẫn hấp dẫn bởi nghệ thuật. Nhà văn không phải viết một truyện lịch sử vô tăm tích mà người đọc có thể soi chiếu vào đó và tìm ra những ý nghĩa cho riêng mình.

Thành công của nhà văn là khi đọc xong tác phẩm, người đọc phải suy ngẫm về nó, anh ta day dứt về điều gì đó qua những thông điệp tường minh hay hàm ẩn của lịch sử. Một tấm gương sáng hoặc mờ trong quá khứ để soi vào, anh ta thấy có ích và ý nghĩa khi đọc câu chuyện lịch sử đó.

5. Nhà văn cần có bút pháp hấp dẫn. Có những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử giàu cá tính và chỉ cần kể lại một cách khéo léo đã hay rồi nhưng có những chuyện khác cần phải kì công và dùng rất nhiều trí tuệ và sáng tạo của nhà văn. Có hai cuốn tiểu thuyết mà tôi rất thích thú là cuốn “Hồ Quý Ly” của Nguyễn Xuân Khánh và cuốn “Giàn Thiêu” của Võ Thị Hảo.

Nguyễn Xuân Khánh thì tập trung vào luận điểm trí thức trong thời đại của mình còn Võ Thị Hảo thì tập trung nhiều hơn vào ngôn ngữ và hình ảnh lịch sử. Nguyễn Xuân Khánh đã thành công về luận điểm con người trí thức nhưng chữ nghĩa của ông không thật trau chuốt, sắc bén. Còn Võ Thị Hảo thì có một bề ngôn ngữ đầy sắc sảo, hình ảnh ấn tượng dù vấn đề đặt ra của tiểu thuyết không nổi trội như Nguyễn Xuân Khánh.

Điều tôi muốn nói qua hai ví dụ ở trên rằng, mỗi nhà văn sẽ chọn lựa một cách viết riêng phù hợp với sở trường và sở thích của mình để đạt được hiệu quả cao nhất. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, bất cứ cách viết nào cũng cần tạo ra sự hấp dẫn và khơi gợi với độc giả, vì nếu không làm được thế thì dù tư tưởng của anh có lớn lao thế nào, anh có rèn giũa chữ nghĩa công phu ra sao nhưng độc giả dửng dưng, không quan tâm thì anh đã thất bại từ bước đầu tiên. Vì nói cho cùng tác phẩm nghệ thuật phải có độc giả, không có độc giả thì cả nhà văn và tác phẩm của anh ta đều sẽ chết theo đúng nghĩa đen của nó!
Uông Triều
.
.