Gặp người hát một giấc mơ

Thứ Sáu, 19/04/2013, 08:00
Hà Nội trong ký ức của Lê Khánh Mai không chỉ là đạn bom, khói lửa mà còn là hình ảnh người cha yêu dấu. Thêm nữa, tình yêu đầu đời của Mai cũng nảy nở từ mái trường Trưng Vương trên phố Hàng Bài. Ngay cả cơn lũ sông Hồng khủng khiếp năm 1971, gieo tai họa cho bao người cũng đã đi vào thơ Mai: "Hà Nội mùa đông đầu thế kỷ/ bờ ngực tôi con đê sắp vỡ/ run rẩy, lo âu, linh cảm, đợi chờ..."...

Có lần, tôi vào Facebook của nhà thơ Lê Khánh Mai, bất ngờ đọc được một khổ thơ về Hà Nội thật lạ, những hình ảnh như rút ra từ gan ruột của một người con Hà Nội tha hương. Tôi vội bình luận mấy câu để chia sẻ và dò hỏi duyên cớ nào mà Lê Khánh Mai lại viết về Hà Nội sâu sắc thế. Lê Khánh Mai nhắn lại với ý rằng: Khi nào tôi vào Nha Trang thì sẽ được nghe kể, vì chuyện về Hà Nội của Mai dài lắm. Gần đây có dịp vào Nha Trang, cái hẹn ngỡ như bâng quơ hồi nào ấy thôi thúc tôi gặp Lê Khánh Mai. Chúng tôi đến Quán Văn Nghệ, nơi mà Mai đã uống cà phê ở đây suốt 30 năm qua.

Ký ức Hà Nội cuộn sóng Nha Trang

Lê Khánh Mai không biết bắt đầu câu chuyện của mình như thế nào, bởi lẽ bao kỷ niệm về thủ đô ùa về như sóng biển vậy. Lặng đi một hồi rồi bất ngờ Mai đọc những câu thơ viết về Hà Nội mà tôi đã biết. Giọng chị nghẹn đi vì nỗi nhớ của một thời tuổi trẻ dâng trào. Những câu thơ day dứt làm sao: "Hà Nội trong tiền kiếp của tôi/ ám ảnh đêm dài cơn mơ chăn nệm/ căn nhà tập thể chín mét vuông/ tôi chen nhau với sách vở, bếp dầu, chai lọ/ Mẹ tôi gương mặt mùa đông góa bụa/ thức dậy bốn giờ sáng, ra đi hun hút gió/ đón chuyến xe đầu ngày...".

Mai kể, đó là những ngày Mai theo cha mẹ ra tập kết ngoài Bắc, hồi năm 1954, khi mới 7 tháng tuổi. Mai sáng tác bài "Hà Nội mùa đông đầu thế kỷ" khi nhớ lại ngôi nhà tập thể mà gia đình ở tại 138A Giảng Võ. Qua bài thơ, Mai muốn kể lại tuổi thơ côi cút co ro của mình với những tháng ngày quẩn quanh với tem phiếu, xếp hàng mua thực phẩm và những tiếng còi báo động thời chiến.

Mai lại nhớ những ngày theo nhà trường đi sơ tán, khi ở Hà Tây, khi đến Hưng Yên, sống với những người nông dân hiền lành chất phác. Chính những ký ức đồng quê này đã hiển hiện trong những bài thơ viết về người đàn bà, mà Lê Khánh Mai đã gây ấn tượng qua các hình ảnh "Người đàn bà lặng im như cát", "Người đàn bà đi chợ", hay "người đàn bà gom rác", và "cho một người đàn bà".

Giọng Mai chợt nghẹn lại khi kể đến chuyện người cha của mình, vì mộ của ông có thời vẫn còn để ở nghĩa trang Yên Kỳ, Sơn Tây, Hà Nội đến mấy chục năm sau ngày giải phóng miền Nam. Không bao giờ Mai quên được khi còn nhỏ, thường nghe cha gảy đàn măngđôlin và hát cho con gái nghe: "Quê tôi ở miền Nam, có hàng dừa biển xanh, có dòng sông uốn quanh...". Những nỗi niềm thương nhớ người cha còn nằm lại đất Bắc, Mai đã có dịp trút vào thơ: "Vượt đường xa đến thăm cha, nghĩa trang Yên Kỳ đồi hoang trắng xóa, san sát mộ bia trải ra như phố, ngôi thấp ngôi cao, có tên, có số, cùng nổi chìm bao kiếp giầu nghèo...".

Nhà thơ Lê Khánh Mai (bên phải) và nhà thơ Philippines Marjrie Evasco tại Liên hoan thơ châu Á - Thái Bình Dương (Hạ Long, tháng 2/2012).

Hà Nội trong ký ức của Lê Khánh Mai không chỉ là đạn bom, khói lửa mà còn là hình ảnh người cha yêu dấu. Thêm nữa, tình yêu đầu đời của Mai cũng nảy nở từ mái trường Trưng Vương trên phố Hàng Bài. Ngay cả cơn lũ sông Hồng khủng khiếp năm 1971, gieo tai họa cho bao người cũng đã đi vào thơ Mai: "Hà Nội mùa đông đầu thế kỷ/ bờ ngực tôi con đê sắp vỡ/ run rẩy, lo âu, linh cảm, đợi chờ...". Và khi ấy nỗi hoài niệm trong Lê Khánh Mai không thể giấu được trong cơn khát tình yêu thiếu nữ ngày nào ở thủ đô: "Hà Nội tái sinh/ sao người không sống lại/ tôi biết cất vào đâu quả tim mười sáu".

Xem ra cái chất Hà thành đã ngấm vào dòng máu người phụ nữ miền Trung này. Không chỉ giọng nói, ngôn ngữ diễn đạt, mà đến cách nghĩ hay nét suy tư cảm xúc cũng rất Hà Nội, cho dù Mai có làm thơ về quê biển. Mai từng viết trong một khổ thơ nhớ đất bắc, nhớ Hà Nội: "Bát cơm trung du tôi nhớ suốt đời/ Lát chuối thơm bùi, hạt cơm đỏ ngọt/ Đã nuôi tôi, đứa con miền Nam/ Hai mươi năm sống trên đất Bắc/ Với tấm lòng thơm thảo bao dung". Đúng vậy, tính đến năm 1975, khi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Lê Khánh Mai đã có 21 năm sống ở Hà Nội.

Người về với ngọn gió Tu Bông

Tôi đã cảm nhận đúng khi chính nhà thơ Lê Khánh Mai cũng tự thấy một nửa cảm xúc thi ca của mình được cất lên trên nền phù sa sông Hồng. Cho dù mạch nguồn thơ ca ở thời sinh viên của Mai chỉ là mộng mơ hồn nhiên, nhưng lại là cơ sở căn bản cho tư duy hình tượng phát triển khi bài thơ đầu tiên được in trên tạp chí văn nghệ Nha Trang, trong những ngày đứng trên bục giảng. Khi nhắc đến những ngày về, Lê Khánh Mai luôn nhắc đến quê hương của mình ở Tu Bông, nơi có một mùa gió khắc nghiệt, kéo dài tới ba bốn tháng. Từ xa xưa, trong dân gian đã có câu "Mưa đồng cọ, gió Tu Bông", để nói lên sự vất vả của người nông dân vùng quê này. Lê Khánh Mai đã từ Hà Nội về với bao nỗi yêu thương và đã viết lên những câu thơ xót lòng: "Xa hai mươi năm, giờ trở lại Tu Bông/ tôi đâu ngờ quê tôi nhiều gió thế/ gió đầy ắp trong căn nhà của mẹ/ giật  mái tranh nghèo/ giằng cây trái vẹo nghiêng/ lúa xơ oằn rạp trên đồng/ con gái Tu Bông suốt ngày tóc rối".

Sau 15 năm dạy học ở trường phổ thông, Lê Khánh Mai chuyển sang Sở Văn hóa và khi đó, chị mới dành nhiều thời gian cho sự nghiệp thơ ca. Cũng chính thời gian này chị cho xuất bản tập thơ đầu tiên. Đó là tập "Trái chín" (năm 1990). Đến lúc này, những quan niệm thi ca mới hình thành dần trong quá trình sáng tác của Lê Khánh Mai. Chồng chị, sinh thời cũng từng làm thơ nên có nhiều đồng cảm với vợ. Thơ Lê Khánh Mai ngày càng hay khi viết về quê hương đất biển, nhưng tôi nghĩ vẫn là mạch nguồn cảm xúc tài hoa của xứ Kinh kỳ mách bảo. Lê Khánh Mai đã có sự tìm tòi tinh tế trong câu chữ. Nhất là ở những bài thơ như: "Giấc mơ tôi hái", "Đêm ở biển", "Tâm khúc", "Tôi sinh ra từ bùn"... Giàu suy tư, nồng nàn và sâu lắng, thơ Lê Khánh Mai là thế và chị đã trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 2002. Lê Khánh Mai là một tác giả nữ đầu tiên thuộc lứa sáng tác sau 1975 ở Nha Trang được kết nạp Hội Nhà văn. Với sức viết dẻo dai, hơn hai mươi năm qua, Lê Khánh Mai xuất bản được 6 tập thơ và 3 tập văn xuôi. Đó thực sự là một con số ấn tượng, đáng nể phục với một cây bút nữ từng hết sức bận rộn với công việc của một Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh.

Giờ đây, Lê Khánh Mai chỉ còn phải dành tâm sức cho con, cháu (chị đã nghỉ hưu cách đây 3 năm). Điều chị vui nhất là cô con gái đã nối nghiệp văn chương của mẹ, cùng sinh hoạt trong Câu lạc bộ văn học nữ với mẹ. Thật "mẹ nào con nấy". Hiện tại tôi được biết, Khánh Linh - con gái chị - đang có những truyện ngắn được bạn đọc đón nhận như một cây bút trẻ đầy triển vọng của tỉnh Khánh Hòa.

Với sự phương trưởng của các con, Lê Khánh Mai như hái được giấc mơ trong đời mình vậy. Chị đã viết: "Giấc mơ của tôi hái từ cơn giông/ Không hình thù, màu sắc/ Nhưng tôi biết nó rất mỏng manh và tơ non/ Tôi nâng niu cất giữ trong ngăn tủ tâm hồn/ như báu vật".

Mơ giấc hẹn hò

Chuyện loanh quanh thế nào mà rồi Lê Khánh Mai lại quay sang hỏi tôi về bạn bè ở Hà Nội. Những kỷ niệm của hơn 20 năm vẫn lang thang đâu đó trong tâm tưởng nhà thơ. Chúng mơ hồ nhưng lại khi ẩn, khi hiện, với những hình ảnh bậc cầu thang nhà tập thể ngắn tũn, nếu bước nhanh là vấp. Lê Khánh Mai nhớ lại, rồi đọc cho tôi nghe hai câu thơ "rất Hà Nội": "Bạn bè ơi bốn phương trời lưu lạc/ kem Bốn Mùa còn nhức tận chân răng".

Trò chuyện với nhà thơ đất biển Nha Trang, trong lòng tôi thấy gần gũi làm sao. Tôi tưởng như đang cùng chị ngồi bên nhà Thủy Tạ ở bờ hồ Hoàn Kiếm vậy. Và tôi chợt nghĩ, biết đâu có ngày chúng tôi gặp lại nhau ở Hà Nội, vào hiệu kem Bốn Mùa, cùng ăn kem que, và lại cùng nhau nói chuyện về biển Nha Trang. Khi ấy, tôi đoan chắc Lê Khánh Mai lại nói về mùa gió Tu bồng đầy sức tàn phá ở quê chị. Vì khi xa quê bao giờ chị cũng rưng rưng nỗi nhớ. Cũng như lúc này đây, chị lại nhớ về Hà Nội thật da diết, vì chị luôn luôn coi Hà Nội là quê hương thứ hai của mình

Vương Tâm
.
.