"Chợ tết" tưng bừng người thơ ẩn dật
Sống thọ (tới 92 tuổi) nhưng viết ít, hầu như những bài đặc sắc nhất của Đoàn Văn Cừ đều gói gọn ở giai đoạn trước Cách mạng, và chủ yếu tập trung vào đề tài xuân, tết. Có lẽ bởi thế mà thơ Đoàn Văn Cừ thường được nhắc tới, được phẩm bình nhiều vào mỗi độ tết đến, xuân về. Và, như một nghịch lý, trong khi tác phẩm của ông không ngừng được "tái xuất giang hồ" trên mặt báo thì nhiều "thông số" về cuộc đời ông dường như vẫn ít người tỏ tường...
Cả ba lần in đều phải bỏ trống tiểu sử tác giả
Trong "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh - Hoài Chân, nếu như Chế Lan Viên từng tỏ ra "ngúng nguẩy" đến độ các nhà biên soạn phải ghi chú dưới phần bài viết về ông là "Chế Lan Viên không ưng cho chúng tôi đề tên thật và in ảnh của người" thì Đoàn Văn Cừ - ở một thái cực khác, cũng là một trường hợp… lạ. Lạ đến độ Hoài Thanh - Hoài Chân phải chua thêm bên dưới bài viết về Đoàn Văn Cừ một câu: "Cho đến hôm nay, viết mấy lời giới thiệu thơ Đoàn Văn Cừ, tôi vẫn chưa biết gì thêm về con người ấy".
Cuốn "Thi nhân Việt
Mấy bài thơ mà Hoài Thanh - Hoài Chân nhắc tới trên được các ông lấy ra từ báo Ngày nay, một tờ báo có uy tín thời ấy của nhóm Tự lực văn đoàn. Cũng trên tờ báo này, ngay từ năm 1939, vào đúng dịp xuân Kỷ Mão (cách đây tròn 6 giáp), Đoàn Văn Cừ đã được in bài thơ "Chợ Tết" với những dòng nhận xét xác đáng: "Trong những lời đẹp một cách giản đơn và ý nhị, phiên chợ tết ở nhà quê hiện ra cùng với những hình ảnh ngộ nghĩnh, những dáng điệu kỳ thú dưới ngòi bút linh hoạt của ông Đoàn Văn Cừ".
Tranh minh họa bài thơ "Chợ Tết" của Đoàn Văn Cừ. |
Những ai đã đọc "Thi nhân Việt
Điều ngạc nhiên là mặc dù được trân trọng, thể hiện sự đồng cảm, tri âm đến vậy, song phải tới gần ba chục năm sau, Đoàn Văn Cừ và Hoài Thanh mới liên lạc được với nhau. Đó là vào dịp đầu xuân 1967, Hoài Thanh bất ngờ nhận được thư của Đoàn Văn Cừ, bên trong là hai dòng thơ: "Lời thơ tuy chẳng còn xinh/ Trăm năm giấy nát nhưng tình còn vương". Hai câu thơ gửi gắm nhiều ý tứ, kể cả ôn lại cái ơn quá khứ lẫn sự "nhắc nhẹ" chuyện hiện tại. Mấy ngày sau, Đoàn Văn Cừ bất ngờ nhận được hồi âm của Hoài Thanh. Cũng vẫn bằng thơ: "Trăm năm vì nỗi hẹn hò/ Cây đa, bến nước con đò vẫn đưa". Mượn câu ca dao xưa nhưng chữa đi vài chữ, nhà phê bình muốn gửi tới người bạn thơ thông điệp về tình cảm trước sau như nhất của mình.
Không viết riêng cho một phiên chợ nào
Từ lâu, đọc bài thơ "Chợ Tết" của Đoàn Văn Cừ, trong đó có những hình ảnh rất sinh động, kiểu như: "Trên con đường viền trắng mép đồi xanh/ Người các ấp tưng bừng ra chợ tết/ Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc/ Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon/ Vài cụ già chống gậy bước lom khom/ Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ/ Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ/ Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu/ Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau/ Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa/ Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh", hoặc "Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm/ Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ/ Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ/ Nước thời gian gội tóc trắng phau phau", nhiều bạn trẻ, nhất là các bạn ở nông thôn rất muốn tìm hiểu xem tác giả đã "chưng cất" hiện thực ấy từ một cái chợ cụ thể nào.
Từng có lần, lão thi sĩ đã trả lời một nhà báo là ông lấy chợ Yên (một cái chợ được họp trên nền đất cát rộng gần với làng ông - làng Đô Quan, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) làm "nguyên mẫu" cho bài thơ "Chợ Tết". Song tôi tin câu ông trả lời nhà văn, nhà báo Y Ban là thỏa đáng hơn. Khi nhà văn Y Ban hỏi có phải ông đã lấy hình ảnh phiên chợ tết quê mình để viết bài thơ "Chợ Tết" không, Đoàn Văn Cừ trả lời: "Phải vậy cũng không phải vậy. Từ năm tám tuổi tôi đã thích theo mẹ đi chợ. Có những chợ ở cạnh sông, lại có những chợ ở bên núi. Chợ ở giữa trời đất. Những cái chợ đấy có cả ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Việt Trì… chứ đâu chỉ có ở quê mình". Cũng theo nhà thơ Đoàn Văn Cừ cho biết thì trước đây, cũng đã có một đoàn ở bên làng Lao sang gặp ông và bày tỏ nguyện vọng muốn được khắc đá bài thơ vì cho rằng, bài thơ trên là nói về phiên chợ của… làng họ.
Luôn coi mình là "cư sĩ"
Sách báo khi nói về Đoàn Văn Cừ, thường hay nhắc tới lối sống ẩn dật của ông. Thật ra, nếu nghiên cứu kỹ tiểu sử của ông, ta sẽ thấy Đoàn Văn Cừ không hẳn lúc nào cũng muốn ẩn mình như vậy. Ông từng tham gia hoạt động xã hội. Năm 1946, ông tham gia HĐND tỉnh
Nhân đây cũng cần kể thêm một chi tiết mà cách đây ít năm, tôi từng đọc được trên báo: Mặc dù trên nhiều tài liệu có ghi năm 1944, Đoàn Văn Cừ cho xuất bản tập "Thôn ca" I, song cho đến khi mất, ông chỉ "nghe nói" chứ chưa bao giờ nhìn thấy tập thơ này, và có ý mong anh em văn nghệ nếu ai có điều kiện thì tìm hiểu giúp xem "có đúng" tập thơ đã được in ra năm 1944 không? Một tác giả mà "lơ đãng" với quyền lợi của mình đến vậy, âu cũng là chuyện… hiếm.
Thật đúng như nhiều nhà phê bình nhận định, Đoàn Văn Cừ là một thi sĩ đích thực, luôn chọn cho mình một lối sống bình lặng, tránh xa mọi sự ồn ào, bon chen. Hẳn là vì thế mà trong thư từ gửi bạn bè, ông thường chua thêm trước tên mình mấy chữ "cư sĩ", "kẻ sĩ chân đất", "kẻ sĩ Nam Hà"?
Được biết, trong gia đình nhà thơ Đoàn Văn Cừ, không chỉ cá nhân ông được giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật mà họa sĩ Đoàn Văn Nguyên - con trai ông cũng đã được nhận giải thưởng danh giá này (về lĩnh vực hội họa).
"Ẩn dật" mà như vậy, hỏi ở Việt