Nhớ lại hai cái Tết ở Hà Nội
Cho đến nay, tôi chỉ ăn Tết ở Hà Nội có hai lần. Hai lần thôi nhưng đầy kỷ niệm. Tết Hà Nội bây giờ chắc chắn không khác Tết Sài Gòn bao nhiêu. Cả nước đang thực hiện được một sự thống nhất rất cơ bản, ấy là trình độ kinh tế chung của đất nước đã đồng đều. Đó là một thành công lớn của Việt
Lần đầu, Tết Canh Tuất 1970. Đầu tháng 11/1969 (âm lịch là năm Kỷ Dậu), tôi được điện của Trung ương Cục gọi lên Nam Vang. Điện không nêu lý do. Bấy giờ, Khu ủy Sài Gòn đang thực hiện một phân công mới do Trung ương Cục quyết định: Đồng chí Võ Văn Kiệt được chỉ định làm Bí thư Khu 9 và tôi thay đồng chí ở Khu Sài Gòn. Cả anh Kiệt cũng chưa biết Trung ương Cục gọi tôi vì việc gì, nhưng thỏa thuận anh sẽ nán lại một số ngày trao đổi thêm công tác ở Khu với các anh Mai Chí Thọ, bấy giờ là Phó bí thư và anh Nguyễn Thái Sơn, ủy viên Thường vụ phụ trách nội thành.
Đến Nam Vang, tôi gặp anh Phạm Hùng thì mới hay Trung ương gọi anh Phạm Hùng và tôi ra Hà Nội để nhìn Bác lần cuối cùng. Như ta biết, Bác qua đời ngày 2/9/1969, Trung ương muốn có mặt đại biểu của Nam Bộ trước khi tẩm liệm Bác. Anh Phạm Hùng là Bí thư Trung ương Cục, đồng thời có chân trong Bộ Chính trị, còn tôi đang phụ trách Sài Gòn, thành phố mà Bác luôn nghĩ tới lúc sinh thời.
Chúng tôi, với hộ chiếu là người Hoa ở Nam Vang, đáp máy bay của Hãng Air
Xanh xanh một dãy bạt ngàn
Con đường uốn khúc vạch ngang góc trời
Cột đồng xưa đã ngã rồi
Mà nay thiên cổ chói ngời chiến công.
Thoát Hoan và chiếc trống đồng
Sac-tông và cả trăm dòng bại binh
Phải đâu thế núi điệp trùng
Trông mây nghe khúc anh hùng Việt
Hai câu sau tôi mượn ý của vua nhà Trần sau hai lần chiến thắng quân Nguyên - Mông:
Thùy tri vạn cổ trùng hưng nghiệp
Bán tại sơn hà, bán tại nhân.
Tạm dịch:
(Ai có biết sự nghiệp trùng hưng trước nay
Nửa nhờ sông núi, nửa nhờ dân).
Đến Hà Nội, chúng tôi được đưa vào Bệnh viện 108 để nhìn Bác. Các nhà khoa học Liên Xô đang thực hiện công đoạn chót bảo trì di hài của Bác. Chúng tôi – anh Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thái và tôi – không thể cầm được nước mắt. Bác thanh thản nằm đó. Tôi chỉ còn có thể nắm bàn tay và bàn chân giá lạnh của Bác.
Hà Nội đập vào mắt tôi, phố xá ở đây khác Nam Bộ, song cùng hoàn cảnh chiến tranh cả, bề ngoài rất giống nhau.
Tôi mơ quê cũ thuở lọt lòng
Mây Sài Gòn mang trời Thăng Long
Tình xưa da diết câu quan họ
Sừng sững hoa đào cợt gió đông!
Bức tranh chấm phá đẹp ngàn năm
Núi uốn lưng chừng triền sông lam
Một buồm trăng nhuộm nghiêng cành trúc
Một sáo diều, đồng rạ vàng cam.
Yêu lắm Nhị Hà nơi mở cõi
Cuộn phù sa máu mẹ nuôi con
Dẫu mấy thác ghềnh xuôi không mỏi
Đất có hồn nới rộng giang sơn.
Buổi về quê cũ mưa phùn bay
Chiếc áo bông ôm nhớ những ngày
Ru giấc ngủ trưa hè tiếng võng
Cầu Long Biên mỗi nhịp vòng tay.
Lần đầu ngã vào lòng Thủ đô
Muốn ngược thời gian giữ tuổi thơ
Để lắng bờ đê Yên Phụ hát
Gặp bây giờ rõ được bao giờ!...
Bài thơ này tôi bắt đầu viết ở Hà Nội nhưng hoàn thành tại chiến khu Nam Bộ.
Năm ấy, tôi ăn cái Tết đầu tiên ở Hà Nội. Trời rét, mưa phùn. Xa con chín năm, xa vợ hai năm, tôi mới gặp lại và gia đình cùng đón xuân. Ta và Mỹ thỏa thuận ngừng ném bom miền Bắc trong một thời gian, tôi có thể đi lại được một số nơi như rừng Cúc Phương, vịnh Hạ Long.
Rồi những ngày ở Hà Nội cũng qua nhanh. Tôi lại bay sang Thượng Hải theo lời mời của Tỉnh ủy Hồ
Vài hôm sau, chúng tôi đáp máy bay cũng của Hãng Air
Đáp xuống Nam Vang ngày hôm trước thì ngày hôm sau Lonnol đảo chánh, lật đổ Hoàng thân Sihanouk. Tôi phải lánh vào Sứ quán Cuba, trên mình độc quần đùi, may ô. Cùng “tị nạn” với tôi có dược sĩ Nguyễn Duy Cương – cán bộ Bộ Y tế được Trung ương phân cho Sài Gòn – và ông, bà giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ. Sau đó, chúng tôi trở về chiến khu. Tôi thấy cần nói thêm chi tiết sau đây: Đại sứ
Tôi sửng sốt khi thấy tại phòng khách của Đại sứ một tờ giấy lớn viết chữ to – chữ Tây Ban Nha – treo nơi trân trọng, dưới là tên tôi. Hóa ra, đó là một bài thơ ngắn tôi làm nhân ngày Quốc khánh
Con dao chặt mía
Lưỡi bén xanh
Cầm ngang
Quắc mắt trông về lục địa
Nón bành che mát rượi
Châu Mỹ Latin
Đôi chân đứng tấn
Trên hòn đảo nhấp nhô
Lồng lộng thiên thần
Giữa bốn bề sóng xô.
Chị Công sứ, khi biết tôi là tác giả bài thơ (bài này tôi lấy bút danh Hưởng Triều), bắt tay tôi thật chặt...
Lần thứ hai tôi ăn Tết ở Hà Nội vào năm Đinh Tỵ 1977. Lúc ấy, tôi công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương. Trước Tết mấy hôm, tôi ngã bệnh và phải vào điều trị trong Bệnh viện Việt-Xô, tức ăn Tết trong bệnh viện. Lục trong nhật ký bằng thơ, tôi gặp mấy bài thơ ngắn làm trong dịp Tết này.
Cội đào
Hết Tết cội đào nảy lộc xanh
Còn hoa – xin đợi, nhựa vẫn dành
Mùa sau lại rộ – hoa có chủ:
Riêng của người yêu đất nước xuân!
Cô tưới rau đêm
Chiều gọi đèn đường lên lấm tấm
Nghiêng vai, cô gái múc bóng mình
- Đầu năm xưởng bận, ơi là bận
Tạ lỗi cùng rau: mấy gánh tình!
Qua Đống Đa
Đỉnh gò, gặp Quang Trung – áo giáp
Ngựa chồm vó đường xuân nắng ngập
“Năm 2000! Tất cả theo ta!”.
Có lẽ cần nói thêm về bài thơ chót. Lúc đó, năm 1977, còn những 23 năm nữa mới đến năm 2000, tôi cho là xa lắm. Còn bây giờ, viết bài này thì chúng ta đã đi vào năm 2000 được 5 năm. Tâm trạng kia có liên quan đến cảm nhận về bước đi thời gian của tôi – năm đó, đất nước ta còn quá nhiều khó khăn. Hàng tháng, tôi gom các thực phẩm được cung cấp ở cửa hàng Tông Đản và mậu dịch quốc tế, gói ghém gởi về cho cháu ngoại tôi đang suy dinh dưỡng. Thiếu thốn đủ thứ, nhất là đường và sữa. Sài Gòn đang ăn bo bo, khoai sùng. Người miền Bắc có lẽ còn cực hơn, trừ số cán bộ “có cỡ” như chúng tôi. Cửa hàng Tông Đản và mậu dịch quốc tế được các vị “phu nhân” mua, cuốn sổ mua hàng phải dán thêm giấy dài thòng, bởi công nghệ phẩm và cả thực phẩm nữa có thể bán ra chợ trời, kiếm thêm đôi đồng bù vào lương. Khổ thì khổ thật, nhưng tôi chưa thấy chuyện tham nhũng nào nổi cộm…
Từ đó, tôi không dự cái Tết nào ở Hà Nội nữa vì ngày Tết trời rét lắm, chỉ ra Hà Nội làm việc khi trời ấm. Đất nước ta có những vùng thời tiết khác nhau, cho nên tránh nóng hay tránh rét vẫn có chỗ