Nhà thơ Hải Bằng: Kẻ “Nô bộc” của nghệ thuật

Thứ Hai, 31/07/2017, 08:00
Thấm thoắt mà cũng đã 19 năm kể từ ngày nhà thơ Hải Bằng rời xa cõi thế. Những ngày này, tôi lại ngồi nhớ ông (ông mất ngày 7-7-1998), lật giở lại những trang thơ chép tay mà tôi đã may mắn được ông tặng. Đọc lại những trang tự sự ông viết, để thấu hiểu nhiều hơn những gập ghềnh giông bão trong cuộc đời của một thi sĩ đa đoan, nặng nợ với đời, với người, với thi ca nghệ thuật…


Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Tôn, sinh năm 1930 tại Huế, ông là con trai của quan quản đạo tỉnh Gia Lai và là chắt nội của vua Hiệp Hòa, vị vua thứ 6 trong 13 vị vua của triều đình nhà Nguyễn.   

Là bạn của con trai nhà thơ Hải Bằng (nhà thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Hải Trung - nay là Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Huế) nên những năm tháng còn là sinh viên ở Huế, tôi đã nhiều lần đến chơi nhà và được nhà thơ Hải Bằng thân tình tiếp chuyện. Trong vô số những câu chuyện về cuộc đời và văn chương ngày ấy, thỉnh thoảng ông vẫn nhắc lại cái hành trình nhiều trắc trở của đời mình.

Ông kể: Sau khi rời Huế để lên rừng, đơn vị của ông đã đi bộ ra vùng Quảng Trị, rồi từ đó mới đi tàu ra Vinh. Ở đó, ông được điều về công tác ở Đoàn Cơ giới hóa, nhưng chỉ được một thời gian ngắn thì ông bị ốm nên phải đi điều trị ở Quân y viện Bạch Ngọc đóng trên đất Đô Lương (Nghệ An).

Ra viện, ông tiếp tục được chuyển đến công tác ở Ban Chính trị với nhiệm vụ là chuyên động viên thương bệnh binh và đây cũng là thời kỳ ông bắt đầu bén duyên với văn chương, nghệ thuật, là giai đoạn những sáng tác (thơ) đầu tay của ông được ra đời. Năm 1947, ông được thuyên chuyển về công tác ở Ban Chính trị Liên khu 4, ở Đoàn văn công cùng với: Bửu Tiến, Phạm Duy, Thái Thanh, Trúc Quỳnh…

Nhà thơ Hải Bằng và một tác phẩm của ông

Công tác ở Đoàn văn công được một thời gian không dài thì ông lại được cấp trên điều sang công tác ở Báo Chiến sĩ (tiền thân của Báo Quân đội nhân dân sau này). Đến đơn vị mới, ông được công tác cùng với những người đã có tên tuổi như nhà thơ Vũ Cao, nhà thơ Hữu Loan… Nhận thấy ông là người có năng khiếu nghệ thuật, nhà thơ Hữu Loan đã cử ông tham gia học lớp Văn nghệ Quân đội khóa đầu tiên vào năm 1948 do Tướng Nguyễn Sơn tổ chức ở thôn Bàn Thạch, cùng với Đình Quang, Mặc Hy, Hải Hồ…

Năm 1949, ông ra trường và quay trở lại công tác trên chiến trường Bình Trị Thiên. Trong hành trang quay trở lại chiến trường xưa của ông ngày ấy còn có bằng chứng nhận hai giải nhất về thơ và hội họa. Sau này ông vẫn hay nói "mình làm báo trước khi sáng tác thơ và hội họa, làm thơ là việc của con tim, khối óc, nhưng mình trở thành nhà thơ là do Cách mạng "phân công", vì con đường mình đến với nghệ thuật là con đường Cách mạng…".   

 Trong đời thơ của mình, Hải Bằng đã viết hàng nghìn bài, đã in đến 13 tập sách, nhưng trong số đó có một bài thơ ông không đưa vào in trong bất cứ tập sách nào của mình. Đó là bài thơ "Em nữ cứu thương người Pháp", đây là bài thơ đã làm cho tên tuổi của ông vang danh khắp vùng chiến khu Dương Hòa, Ba Lòng, Gio Linh, Cam Lộ… nhưng đây cũng là bài thơ đã làm cho ông "lao đao lận đận" suốt một thời gian dài vì bị cho là "thương vay khóc mướn", "rung động trước cái chết của quân thù"…

Sinh thời, ông vẫn thường kể cho các thế hệ đàn em nghe về kỷ niệm này: Mùa hè năm 1952, ông theo bộ đội Trung đoàn 95 ra trận phục kích đoàn quân Pháp tiếp tế quân lương, đạn dược cho cứ điểm Nam Đông vùng Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị. Sau trận đánh đó, quân ta bắt được một số tù binh, trong đó có một nữ cứu thương người Pháp còn rất trẻ.

Quân Pháp đã bắn ca-nông vào ngay trận địa của quân ta, làm cho một số bộ đội bị tử trận trong số đó có cả cô nữ cứu thương người Pháp. Những người lính của Trung đoàn 95 đã tìm thấy trong hành trang của cô nữ cứu thương ấy có một bức thư còn thơm mùi mực của mẹ cô từ Pháp mới gửi sang nhắn rằng "con hãy về với mẹ".

Xúc động trước thân phận của một người con gái bị ném vào cuộc chiến tranh tàn khốc và phi nghĩa này, chàng Vệ quốc đoàn dòng dõi hoàng tộc 22 tuổi (lúc này lấy bút hiệu là Văn Tôn) đã thức trắng đêm để viết nên bài thơ dài 56 câu (14 khổ) và xem đó như một nén nhang thắp cho người xấu số. "Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ/ Thấy xác em nằm giữa cỏ tranh/ Anh đắp cho em mền trấn thủ/ Còn đâu nhìn thấy mắt xanh xanh/ Bên xác còn nguyên tờ giấy mỏng/ Ngậm ngùi anh nhặt đọc dòng thư/ Thư buồn mẹ nhắn con về nước/ Anh biết nhà em cũng xác xơ…".

Làm xong bài thơ, ông đã đọc cho các chiến sĩ trong đơn vị mình nghe, những câu chữ mộc mạc, da diết của bài thơ đã làm cho nhiều người thực sự xúc động. Ngay sau đó, bài thơ được chép tay, được học thuộc lòng và lan truyền nhanh chóng trên dọc dài mặt trận Trị Thiên. Không những các chiến sĩ Vệ quốc đoàn thuộc nằm lòng bài thơ mà ngay cả lính ngụy đóng trong các đồn cũng chuyền nhau chép tay và học thuộc.

Sau này, khi nói về bài thơ "Em nữ cứu thương người Pháp" của Hải Bằng, nhà thơ Ngô Minh đã viết: "Đây là lần đầu tiên trong "văn chương cách mạng" Việt Nam có một tác phẩm viết về "kẻ thù", nhưng không ở mức độ phản kháng, chống đối mà ở sự "thương xót" cho số phận con người và lên án chiến tranh. Vì thế bài thơ có cách nhìn chiến tranh rất nhân văn và nhân đạo, không còn lối "xưng tụng một chiều": "Em chết chiều nay chết ở đây/ Mẹ đâu thấy bóng buổi sau này/ Quê hương bên ấy chiều xanh khói/ Sẽ thấy bà con nước mắt đầy…".

 Nội dung bài thơ đã được nhà thơ nói rất rõ là cô nữ cứu thương người Pháp bị Vệ quốc đoàn bắt, nhưng rồi cô bị chết bởi chính đạn ca - nông của quân Pháp, vì vậy mà sự căm hờn càng tăng lên "Bắt em súng anh ngừng không bắn/ Nhưng súng quân thù lại giết em/ Chúng bắn ca-nông vào giữa trận/ Mắt xanh nhắm lại xác nằm im…".

Sau trận đánh ấy, các chiến sĩ Vệ quốc đoàn đã đắp cho cô nữ cứu thương xấu số một nấm mộ đàng hoàng nơi chiến khu: "Rằng các anh là vệ quốc đoàn/ Chiều nay thắng trận tiếng hò vang/ Em được đắp dày ngôi mộ mới/ Anh ngừng tay cuốc: Giận… buồn… thương…".

Bài thơ này cũng đã được nhà văn Nguyễn Khắc Thứ dịch ra tiếng Pháp để chuyển cho những hàng binh Commăngđô đọc, nhiều người lính xa xứ ấy đã khóc, bài thơ được nhiều người ngợi khen là có tinh thần quốc tế rộng lớn. Tuy nhiên, những câu thơ tự sự da diết ấy cũng đã làm cho một số lãnh đạo cực đoan lúc bấy giờ cho rằng "Quan điểm địch-ta trong bài thơ không rõ ràng", tác giả bài thơ là Vệ quốc đoàn nhưng "không biết căm thù giặc". Mặc dù đã được nhà thơ Vĩnh Mai bày tỏ ý kiến bênh vực nhưng trong thời gian ấy tác giả bài thơ cũng không tài nào tránh khỏi nỗi "lao đao, lận đận"…  

Có một thời, do "mắc mớ" liên quan tới chuyện sáng tác mấy năm liền ông thui thủi sống bằng nghề câu cá trên dòng sông Loan thuộc vùng biển Cảnh Dương. Một vài năm sau, ông được gọi đi làm việc ở Ty Văn hóa Quảng Bình và được phiên chế về bộ phận phát hành sách.

Năm 1965, lúc này tình hình chiến tranh vô cùng khốc liệt, ông đã tìm tòi tài liệu, nghiên cứu thông tin để viết nên bài thơ "Cồn Cỏ" ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của những chiến sĩ đang ngày đêm giữ đảo. Dịp đó, nhà thơ Xuân Diệu vào thăm đất lửa Quảng Bình, ông đã đọc bài thơ "Cồn Cỏ" và xúc động ngợi khen. Kết quả là bài thơ ấy đã được giải trong cuộc thi thơ của Báo Văn nghệ năm đó. Từ đây, bút danh Hải Bằng mới chính thức xuất hiện dưới nhiều bài thơ và tác phẩm tạo hình…

Về sau này, khi ông đã là một nhà thơ nối tiếng, rất nhiều người trong đó có tôi tình thật muốn biết vì sao chàng trai hoàng tộc Nguyễn Phúc Vĩnh Tôn lại chọn cho mình bút danh là Hải Bằng? Ông giải thích: Ở biển có con chim báo bão, vốn được xem là biểu tượng của biển cả. Vì ông rất thích con chim bằng ấy mà đã chọn cho mình bút danh là Hải Bằng.

Trong suốt một quãng thời gian dài từ đó cho đến ngày ông rời xa cõi thế, Hải Bằng luôn là một kẻ nô bộc của nghệ thuật, một con người tận hiến với thi ca. Ông đã in 13 tập thơ với rất nhiều thể loại, hàng trăm bức tranh và tác phẩm nghệ thuật tạo hình bằng rễ cây của ông đã có dịp trình diễn cùng công chúng. Ông luôn là một người bạn tốt, cao thượng và thẳng thắn đối với bạn bè cho dù đồng niên hay vong niên…

Đã 19 năm, cánh chim biển chịu nhiều bão giông ấy không còn bên người thân và bè bạn nữa, nhưng những câu thơ nặng nỗi tình đời và những câu chuyện về ông, thi sĩ Hải Bằng vẫn luôn còn mãi với những người còn sống…

Phan Bùi Bảo Thi
.
.