Người thơ từng ngồi viết dưới mưa bom ở Quảng Trị

Thứ Tư, 16/12/2015, 08:01
Người mẹ có một vị trí đặc biệt trong thơ Phan Cung Việt. Và người mẹ Tổ quốc cũng máu thịt như người mẹ hiền đã sinh ra anh. Anh tâm sự rằng, anh tình nguyện đi vào mặt trận trong những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc với tư cách là một phóng viên chiến trường. Với anh, những ngày ngồi viết báo, làm thơ dưới mưa bom ở Quảng Trị là những ngày không thể nào quên trong cuộc đời mình. Dạo đó chưa có những phương tiện hiện đại như bây giờ. Anh kê tờ giấy trắng lên đầu gối, ngồi khom lưng trong hầm, viết trong tiếng bom nổ long trời, lở đất.

Nhà thơ Phan Cung Việt vừa mang tặng tôi cuốn "Văn mới 5 năm 2011-2015" do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, tập hợp nhiều tác phẩm văn xuôi do nhà văn Hồ Anh Thái tuyển chọn.Truyện ngắn "Thương nhớ heo may" của Phan Cung Việt in trong đó như một bài thơ, đúng hơn là rất giàu chất thơ.

Bây giờ, mỗi lần sang đàm đạo về báo chí, văn chương, thời cuộc với nhà báo, nhà thơ, nhà văn Phan Cung Việt, tôi lại đứng lặng trước bức tượng bán thân màu trắng. Tượng một người mẹ - mẹ nhà thơ Phan Cung Việt. Dưới bức tượng là bàn viết. Treo trên tường cạnh bàn viết là một cái vỏ sò tuyệt đẹp với hai câu thơ tôi đã thuộc lòng:

Con đi qua cuộc đời khó nhọc
Không ai thương những kẻ yếu hèn

Đó là hai câu thơ trong bài thơ "Mẹ" của Phan Cung Việt. Và cái độc đáo ở đây là, hai câu thơ được viết bằng mực Tàu trong ruột chiếc vỏ sò óng ánh bạc là của một vị giáo sư gửi tặng nhà thơ.

Nhà thơ Phan Cung Việt.

Người mẹ có một vị trí đặc biệt trong thơ Phan Cung Việt. Và người mẹ Tổ quốc cũng máu thịt như người mẹ hiền đã sinh ra anh. Anh tâm sự rằng, anh tình nguyện đi vào mặt trận trong những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc với tư cách là một phóng viên chiến trường. Với anh, những ngày ngồi viết báo, làm thơ dưới mưa bom ở Quảng Trị là những ngày không thể nào quên trong cuộc đời mình. Dạo đó chưa có những phương tiện hiện đại như bây giờ. Anh kê tờ giấy trắng lên đầu gối, ngồi khom lưng trong hầm, viết trong tiếng bom nổ long trời, lở đất.

Tôi hỏi anh: "Viết xong, gửi bài về tòa soạn bằng cách nào giữa mưa bom như vậy?". Anh bảo: "Khi những trận bom ngớt, tôi chui ra khỏi hầm đi tìm những người đưa thương binh về hậu cứ. Những chuyến xe chở thương binh ra Bắc chính là những người đã chuyển những bài viết cho tôi. Gần như bài viết nào cũng được chuyển đến tận tay của tổng biên tập theo cách như vậy. Thời đó con người sống với nhau thật tuyệt vời. Bất cứ ai ra Bắc dù không biết tên tuổi nhưng họ đều nhận lời chuyển những bài báo, những bài thơ nóng hổi tính thời sự như vậy đến tận tay tổng biên tập. Một niềm tin ở con người thật chưa bao giờ có". Từ chiến trường trở về, anh đã có hàng trăm bài thơ, bài báo đăng trên nhiều tờ báo của tuổi trẻ và những câu thơ thấu tận tâm can:

Có em để có nơi đến
Có mẹ, để có nơi về
Nhưng về… mẹ không còn nữa
Đến thì chỉ có trăng khuya.

Phan Cung Việt tốt nghiệp khoa văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tôi học cùng khoa, cùng trường với anh, sau anh ba năm. Nhưng anh về Báo Tiền Phong trước tôi 7 năm, vì sau khi tốt nghiệp, tôi còn đi bộ đội. Năm 1975, sau khi giải phóng niềm Nam, từ một anh bộ đội ở Binh chủng Tên lửa, tôi được ra quân, về Báo Tiền Phong. Lần đầu tiên đến tòa soạn nộp hồ sơ, một đồng chí lãnh đạo hỏi tôi có biết ai ở báo không? Tôi bảo: "Chỉ biết nhà thơ Phan Cung Việt". Đồng chí ấy cười: "Phan Cung Việt vừa ngồi ở đây mà". Là chúng tôi đang ngồi ở phòng thường trực của báo. Tôi đỏ mặt.

Thực ra tôi chỉ biết tên anh chứ lúc bấy giờ chưa hề biết mặt. Biết tên vì anh đã có thơ đăng trên các báo và tạp chí, vì những ngày ở trong quân ngũ tôi cũng đã đọc thơ anh, nghe bài hát phổ nhạc từ thơ anh. Bài hát "Nguyễn Viết Xuân sáng mãi tên anh" được phổ nhạc từ bài thơ cùng tên của anh, thời đó được phát thường xuyên trên đài. Anh tâm sự rằng, chính là bài thơ, bài hát này đã đưa anh vào những miền quê khói lửa trong khí thế ra đi vì tiền tuyến của một người cầm bút. Với những sinh viên yêu thơ như tôi, ngày ấy anh đã là một nhà báo, nhà thơ nổi tiếng.

Rồi những ngày về Báo Tiền Phong, cùng ăn cơm tập thể, ngủ trên bàn làm việc, cùng vật lộn với những khó khăn của một thời mà ta hay gọi là quan liêu, bao cấp. Sau này, khi viết tiểu thuyết, tôi mạn phép đã lấy những câu thơ của anh làm câu thơ của nhân vật mình:

Đời anh quá nửa nằm bàn
Nằm bàn, thì có mắc màn được đâu

Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ những bài báo anh viết dưới mưa bom ở Quảng Trị và cả những câu thơ anh viết mà không biết ở bài nào, tập nào của anh. Cũng có thể đó là những câu thơ anh viết ở chiến trường, sau những trận bom hay anh làm tặng bạn bè, em út… rồi đọc cho tôi nghe mà cho đến nay tôi vẫn thuộc lòng:

Nhìn những bờ tre rách bươm
Biết mình chưa qua trận mạc
Em vợ mỗi người mỗi khác
Mới biết mình chưa hiểu đời

Những câu thơ bình dị mà sâu lắng, chân thật mà mộng mơ, viết cho một người mà nói được tâm trạng của nhiều người:

"Nhìn bông lúa ngược mà thương
Hám chi phòng lạnh, cửa gương nhà người".
"Tôi muốn chọn một con đường không có bụi
Tức là con đường chỉ của riêng tôi
Mà không biết những dấu chân trong mộng
Cũng đủ tung lên bụi bặm rồi".
"Cả đời chẳng chịu nghe ai
Đêm nằm nghe mọt giảng bài thế gian".

Một thời khổ vì cơ chế, không chỉ thiếu ăn, thiếu mặc, mà còn khốn khổ vì nhiều thứ. Những người yêu thơ, làm thơ như chúng tôi khi đi làm báo, nhiều khi bị coi là hâm, là lơ tơ mơ, là tiểu tư sản. Sau này, nhà thơ Hữu Thỉnh có một câu thơ rất hay: "Trái tim cồng kềnh, thơ phú đa mang" là vậy.

Nhà thơ Phan Cung Việt trong hình dung của tôi cũng là một người như thế: "Trái tim cồng kềnh, thơ phú đa mang". Và thậm chí còn hơn thế. Hôm kia, tôi nói với anh rằng, dạo đó ở Báo Tiền Phong tôi chỉ mong người ta cho mượn cái gầm cầu thang cơ quan để chui vào đó mà trú thân chứ quanh năm nằm trên bàn làm việc khổ lắm. Phan Cung Việt bảo: "Sao ông nghĩ giống tôi ngày ấy thế?". Nay thì anh đã có nhà cửa đàng hoàng, có phòng máy lạnh, những giá đầy sách, có giàn hoa trước cửa, những chiếc lồng chim với những chú chim được anh chăm sóc cẩn thận để mỗi buổi sớm mai cất tiếng hót líu lo… Có cả chiếc bình nhỏ nuôi những con cá lia thia, đó là tên gọi một loại cá ở Hà Tĩnh quê anh. Anh thường ngồi viết dưới bức tượng bán thân của người mẹ. Viết trên máy vi tính. Viết trong mùi hương thơm của các loài hoa…

Phan Cung Việt viết nhiều, viết khỏe. Anh đã  xuất bản nhiều tập sách như: "Gió giữa hai người"; "Trăng khuya"; "Mẹ. Em và…"; "Tiều phu thơ"... Người ta viết về anh cũng nhiều. Nhà báo Dương Quang Minh, nguyên Phó vụ trưởng Vụ Báo chí Văn phòng Chính phủ còn ra hai tập sách viết về anh.

 Tôi thường nói với nhiều phóng viên trẻ ở Báo Tiền Phong rằng: "Bây giờ các bạn thấy Phan Cung Việt ra vào tòa soạn lặng lẽ, như là một người chỉ biết có thơ. Thực ra, Phan Cung Việt không chỉ là nhà thơ. Anh còn là một nhà báo, một nhà văn theo nghĩa đúng nhất của từ này". Anh đã viết cả trăm truyện ngắn, có hàng chục truyện được chọn in trong các tập truyện ngắn hay. Tôi rất thích những truyện ngắn của anh như "Em lên xe hoa", "Xe đạp", "Quẫy lên mà sống"… Hôm qua, anh gửi cho tôi truyện "Vàng thương mến" viết lạ. Anh cũng đã có hàng trăm bài báo với ngòi bút sắc sảo, có uy tín một thời. Anh cũng là một cán bộ đoàn năng động, nhiều năm làm Bí thư Đoàn Thanh niên cơ quan Báo Tiền Phong.

Quan niệm về báo chí, văn chương của anh có điểm giống tôi ở chỗ: Người viết phải có trách ngiệm với bạn đọc. Đọc những truyện ngắn của anh, tôi tự tin hơn khi ngồi viết văn xuôi. Chính anh và nhà văn Lê Minh Khuê đã động viên tôi rất nhiều khi viết tiểu thuyết "Xuyên Cẩm", "Thổ Địa" và " Cõi Ta Bà".

Về hưu đã bao năm, bây giờ tôi thấy anh như trẻ ra. Vẫn cái cốt cách tự tin, hài hước, dí dỏm và có lúc cũng bốc đồng. Trông anh ung dung, thư thái như chẳng lo nghĩ việc gì! Một mình một cõi, chẳng ai quấy rầy, làm phiền, có lẽ trừ "em út"… Tôi đã gặp trong đời nhiều người sống chết vì thơ, trong đó có nhà thơ Phan Cung Việt. Đàm đạo về hạnh phúc, có người bảo tôi: Bây giờ người ta thực dụng lắm! Có người còn định nghĩa hạnh phúc là những gì làm thỏa mãn cái mồm, cái mũi, cái tai, cái mắt và cái… Chứ ai lại như các ông văn chương thơ phú lơ mơ suốt ngày. Nhà thơ Phùng Quán đã từng viết: "Vịn lấy câu thơ mà đứng dậy". Trong mưa bom ở Quảng Trị, hay trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào, những người yêu thơ như Phan Cung Việt cũng tự tin "Vịn lấy câu thơ mà đứng dậy". Và đó là điều mà nhà thơ Phan Cung Việt đã từng viết:

"Bao thất bại và đau buồn mặc kệ
Không một người nào đáng sống thay anh"…

Dương Kỳ Anh
.
.