Người đẹp đền Hùng và số phận những quân cờ

Thứ Năm, 23/03/2006, 07:20

Trong cuộc cờ người, những người đẹp nào được ngồi quân xe, quân pháo thì sự hãnh diện không để đâu hết; được xếp ngồi cung tướng càng thơm hơn nhưng có người lại e ngại, vì sợ cao số, khó nhọc về đường chồng con.

Trước 1945, hàng năm, cứ đến ngày 10/3 âm lịch, khi lễ hội đền Hùng mở ra, các chức dịch làng Xuân Lũng, tên nôm là làng Dòng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, lại phải một phen vất vả đôn đáo tuyển chọn những cô gái đẹp trong làng để đưa đi ngồi quân cờ ở hội đền theo “trát” của quan tuần, quan phủ sức về. Theo truyền thuyết, sở dĩ Xuân Lũng được hưởng điềm may này vì Xuân Lũng là mảnh đất đã sinh ra năm người con gái mặt hoa da phấn trong cùng một giờ, chuyên làm nghề trồng chè đã được vua gọi vào cung, từ đó thành lệ.

Xuân Lũng cũng là một trong tám xã thuộc tổng Xuân Lũng được đảm trách vai trò “dân trưởng tạo lệ”, tức là thay mặt cho cả nước chăm lo việc đèn nhang thờ tự (năm lẻ) ở đền Hùng. Tục lệ tuyển hoa khôi của Xuân Lũng tham dự hội đền Hùng và cả hội xuân ở phủ Lâm (phủ lị Lâm Thao) càng có cơ sở để duy trì và phát triển.

Sau khi nhận được “trát” của trên, hội đồng lý dịch làng Xuân Lũng cho gọi những cô gái làng đức  hạnh tốt, ngoại hình dễ ưa ra đình Cả, ngôi đình cổ và to nhất vùng, dự sơ tuyển. Có đánh chén rôm rả. Mọi chi phí do các gia đình có con gái dự tuyển đóng góp. Sau đấy những cô gái được chấm còn phải về phủ dự thi vòng hai. Cách thức chấm chủ yếu là “trông mặt mà bắt hình dong”. Tiêu chuẩn về văn hóa coi như không đặt ra vì dưới chế độ cũ, phụ nữ ít được học hành. Thành viên dự thi là những cô gái chưa chồng, con cái các gia đình khá giả hoặc có chức sắc ở xã, ở tổng.

Điều này có liên quan đến vấn đề kinh tế: Đã bằng lòng cho con gái đi ngồi quân cờ thì cha mẹ phải chi tiền may sắm quần áo (ba bộ), giày dép (ba đôi), nón thúng quai thao cùng nhiều tư trang khác (để trong một cái hòm gỗ con), đáng giá vài chục đồng bạc, chứ nhà nước không cấp phát và không có tổ chức xã hội nào tài trợ (năm 1922, chỉ với hai đồng bạc đã có thể sắm được một ván xôi gà, một trăm cau, một chai rượu làm lễ vấn danh!).

Cờ người trong dịp lễ hội xưa.

Cũng có năm người đẹp được đưa thẳng về hội đền hoặc về phủ. Lý trưởng phải dẫn đi; sang thì có xe tay, thường thì phải cuốc bộ. Ai được ngồi quân xe, quân pháo thì sự hãnh diện không để đâu hết; được xếp ngồi cung tướng càng thơm hơn nhưng có người lại e ngại, vì sợ cao số, khó nhọc về đường chồng con.

Cờ người là một trò chơi dân gian vừa mang tính trí tuệ lại vừa có tính cách của hình thức diễn xuất kịch câm rất phổ biến ở làng quê Bắc Bộ. Theo quy định cũ, sau khi quan tuần phủ lên dâng hương đền Thượng, các cô gái, chàng trai mới được ngồi vào vị trí quân cờ của mình. Mỗi cuộc cờ thường có bày một bàn rượu và một đĩa chén hạt mít do hai cụ cao niên và cao cờ điều khiển.

Bên trai áo the, khăn nhiễu thướt tha, giày Gia Định bóng lộn cũng với mười sáu biển quân cờ cao hơn tầm người và được viết chữ cả hai mặt. Bên gái mười sáu người mặc áo tứ thân lụa điều, yếm cánh sen, váy lĩnh, chân đi hài mỏ phượng, đầu quấn khăn vành dây lá mạ cùng mười sáu biển quân cờ có chân đứng ngang tầm vai.

Ban ngày phải ngồi quân cờ trong không khí căng thẳng (giờ nghỉ mới được lên nhà công quán), có người phải bỏ cuộc vì sức khỏe không đảm bảo. Tối đến mọi người cùng vào làng Cổ Tích gần đó để ngủ. Đó là các nhà dân đã được bố trí sẵn, cốt sao yên lòng các bậc cha mẹ có con gái đi xa. Được biết hội đền Hùng năm 1943, Cung Đình Vận, Tuần phủ Phú Thọ, đã cho đan những cái rọ giống rọ lợn vừa to vừa chắc để bắt nhốt những cặp trai gái đi hội mà có hành vi không đứng đắn hoặc giam chân những kẻ dám bờm xơm người đẹp giữa ban ngày!

Điều lý thú là có những nhà có đến ba thành viên cùng được ngồi vào bàn cờ, tất nhiên là ở những thời điểm khác nhau. Đấy là trường hợp của ông bà Đào Văn Diễm và Nguyễn Thị Tầu, tục gọi phó ích, có ba người con gái đẹp là Đào Thị Ích, Đào Thị Tài và Đào Thị Khoa. Ông Đào Văn Diễn trúng cử phó lý làng Xuân Lũng năm 1921, rành chữ Nho hơn chữ Quốc ngữ. Ba người con gái họ Đào thượng này nói chung trình độ học vấn bị hạn chế, có điều họ được thừa hưởng nét vượt trội của cha về làn da trắng như trứng gà bóc nên mới có chuyện các bà đi làm đồng phải ngụy trang... tận chân răng phòng máy bay giặc Pháp phát hiện (!) Và mái tóc dài chấm đất của mẹ, mỗi lần gội đầu phải đứng trên giường để chải.--PageBreak--

Cả ba bà cùng nhuộm răng đen nhưng nhức, một mỹ tục rất được ưa chuộng thời xưa. Người chịu chơi “mốt” này thường lấy cành sầm, một loại cây vỏ sần sùi, lá cứng, hợp thủy thổ trung du, hơ qua lửa cho nhựa cây chảy vào đầu lưỡi dao, sau đấy dùng que tre bánh tẻ quẹt lấy nhựa và chít vào răng cho thêm đen và chống bị bạc. Hàm răng phải được chăm sóc tỉ mỉ, thậm chí hơi nhiêu khê. “Mười quan chẳng tiếc tiếc người răng đen” là thế!

Thân mẫu của GS Viện sĩ Nguyễn Văn Đạo, nguyên Hiệu trưởng Đại học Quốc gia Hà Nội, đã từng đặt những bước chân duyên dáng lên thảm cờ đất Tổ vào trước những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi. Tên bà là Nguyễn Thị Bình, họ Ba ngành của Nguyễn Chính Tuân, đậu tiến sĩ khoa Giáp Tuất, niên hiệu Hồng Thuận 6 (1514). Họ Tam  Sơn ở Xuân Lũng có bà Nguyễn Thị Chinh, con gái đồ Chinh - Nguyễn Văn Đức. Nhưng bà Chinh do không thích hợp với nhu cầu lao động đồng áng căng thẳng ở gia đình nhà chồng mà lâm bệnh trọng và đã từ biệt cõi đời ở tuổi hai mươi bảy, để lại hai người con trai đang còn thơ dại.

Hoa khôi ở Xuân Lũng làng Dòng không hề được mang vương miện, cho dù họ là những người sớm chạm tay vào các loại mốt vòng vo bên ngoài lũy tre xanh. Họ như những bông hoa của nương đồi chỉ lặng lẽ đơm hương, kết trái. Người đời nay mấy ai biết cô Nguyễn Thị Thìn, con ông Nguyễn Đoàn, tức Ký Đoàn, một nghĩa binh Yên Bái năm 1930, vào những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi đã được kén ngồi cung tướng, tức là được xếp vào loại gái đẹp nhất làng?

Cụ Đỗ Thành, từng làm Bang tá Cẩm Khê, Phú Thọ, hàm chánh cửu phẩm, tục gọi Huyện Nhượng, ở Cây Da Bình Vôi, có hai cháu ngoại là Nguyễn Thị Thái và Nguyễn Thị Văn (mẹ đẻ là Đỗ Thị Mỹ, tức bà phó Minh Cư) cùng được đắc cử một lần ngồi sĩ. Cụ Huyện Nhượng còn có người con trai là xếp Thản - Đỗ Thản, cũng được chấm đi ngồi quân cờ ở hội đền Hùng.

Còn những gương mặt dễ gây thiện cảm nào nữa? Nguyễn Thị Tỵ, con bủ Vệ Tho, ở xóm An Thọ. Nguyễn Thị Trọng, họ Ba ngành, người xóm làng San. Nguyễn Thị Tuyết, con gái ông Nguyễn Viết Đạo… Phải chăng đó là thế hệ người đẹp cuối cùng xuất hiện ở Xuân Lũng khi bàn cờ đất Tổ tạm xếp lại, năm 1943?

Hội “đấu mỹ” - đấu cờ là ngày hội trữ tình của những trái tim trong trắng nhưng đầy chìm nổi sau lũy tre làng mong manh; trai thanh, gái lịch đã để lại cho nhau nhiều thiện cảm, nhưng số phận may mắn đã không mỉm cười với họ. Tất cả những cô gái đẹp ở Xuân Lũng - làng Dòng cũng như nhiều địa phương khác thời ấy không được dư luận rộng rãi ái mộ và chào đón như các hoa hậu thời nay, càng không được xã hội tạo điều kiện phát huy thế mạnh để làm những việc công ích khác.

Sau khi hoàn thành nghĩa vụ ở lễ hội, họ lại bằng lòng trở về với thân phận đã được an bài của người phụ nữ thời phong kiến. Lại cày bừa dưới ruộng, lại cuốc xới trên nương và chăm chỉ phụng dưỡng chồng con. Cả những bộ quần áo đắt tiền cùng nhiều tư trang khác có người chỉ dùng một lần trong đời rồi bỏ quên luôn dưới đáy tay nải…

Nguyễn Văn Toại
.
.