Giáo sư Đặng Thai Mai:

Người “chăm những luống xanh, cho thời đại con người”

Thứ Năm, 04/10/2007, 12:00
Thầy Đặng Thai Mai đã vun xới không ngừng trong suốt cuộc đời mình những "luống xanh", để có những mùa vàng cho đất nước. Bao thế hệ học trò của ông đã trưởng thành, đã lĩnh hội từ ông trái tim yêu thương và nhân ái với đời sống, với con người và có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc.

Nhắc về ông là nhắc về một nhà trí thức yêu nước, một nhà văn, một học giả uyên thâm, một người thầy lớn của nhiều thế hệ học trò Việt Nam. Nói về gia đình ông là nói về một trong những gia đình hiếm có ở Việt Nam, một gia đình lớn, với truyền thống giáo dục đặc biệt.

Những người con của ông ngày hôm nay đều là những trí thức có nhiều đóng góp cho xã hội trên nhiều lĩnh vực. Con gái đầu của ông là PGS Đặng Bích Hà - người bạn đời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tiếp đến là PGS Đặng Thị Hạnh, vợ của Trung tướng Phạm Hồng Cư, PGS-TS Đặng Anh Đào là vợ của trung tướng Phạm Hồng Sơn.

Hai người con gái nữa của ông là Giáo sư văn học Đặng Thanh Lê, giảng dạy tại khoa Văn Trường đại học Sư phạm Hà Nội và PGS TS Đặng Xuyến Như đang làm việc tại Viện Ứng dụng công nghệ. Ông có một người con trai duy nhất nay là Kiến trúc sư Đặng Thái Hoàng.

PGS-TS Đặng Anh Đào đã nghỉ hưu nhưng vẫn miệt mài với công việc. Bà viết báo, dịch sách, viết phê bình văn học như một cách để tham gia vào dòng chảy của đời sống hôm nay, để thấy mình không bị "cũ" đi.

Ở Đặng Anh Đào luôn toát ra dáng vẻ mô phạm của một nhà giáo đã có nhiều năm đứng trên bục giảng. Bà nói chuyện nghiêm trang và ý nhị, rất chừng mực mà cũng rất tinh tế. Sự ân cần của bà làm người tiếp xúc ấm lòng và tin tưởng.

Là người viết phê bình sắc sảo, am tường ngôn ngữ, bà tỏ ra hơi e ngại nếu như bài viết của tôi về gia đình lớn của bà dùng quá nhiều những từ ngữ ngợi ca. Bà không thích những ngôn từ nghe lanh canh như chuông khánh. Điều này tôi có thể nhận biết khi đọc cuốn hồi ức "Tầm xuân" của bà.

PGS-TS Đặng Anh Đào là người có khả năng làm ta xúc động mãnh liệt khi viết về những chi tiết vô cùng nhỏ trong đời sống, những kỷ niệm rất dễ trôi qua trong ký ức con người. Tôi nhớ bà viết về tách cà phê trong cuộc sống của nhà văn Đặng Thai Mai, người cha thân yêu của mình rất ám ảnh.

GS Đặng Thai Mai vốn là người không bao giờ rời bỏ thói quen uống cà phê mỗi ngày. Vậy mà có một thời kỳ - theo lời kể của bà: "Trong suốt ba tháng tiếp theo, ba tôi không hề uống một giọt cà phê và sau đó không bao giờ còn trở về nhà mình để uống cà phê nữa. Tới bây giờ, thỉnh thoảng có đêm chợt tỉnh dậy tôi lại nhớ đến tiếng thở dài sâu thẳm trong đêm của người mất ngủ mà vẫn không bỏ được cà phê. Để rồi tới khi thôi uống cà phê, cũng là lúc từ bỏ hết mọi thứ ở cuộc đời này".

Nói về cha mình, PGS-TS Đặng Anh Đào nhắc lại những câu chuyện giản dị. "Cha tôi là người làm việc suốt ngày. Bên ông lúc nào cũng chỉ sách là sách. Hồi đó chưa có tivi. Chị em chúng tôi ảnh hưởng từ ông thói quen đọc sách một cách hết sức tự nhiên. Gia đình chúng tôi không khi nào có nhiều tiền, nhưng luôn có nhiều sách. Tôi lớn lên thì cách mạng bùng nổ, không còn được đi học Pháp văn bài bản như các chị tôi. Nhưng tôi đã tự học tiếng Pháp bằng chính những cuốn sách của ba có ở trong nhà mình".

Nhờ những cuốn sách của cha và tinh thần tự học mà PGS-TS Đặng Anh Đào đã trở thành một dịch giả với các dịch phẩm được nhiều người biết tới như: "Tuyển tập truyện ngắn Pháp thế kỷ XIX", "Thế kỷ ánh sáng", "Pieret", "Truyện ngắn phương Tây". Tình yêu đối với văn học chính là tài sản quý giá bà được thừa hưởng từ người cha thân yêu.

GS Đặng Thai Mai sinh năm 1902, người làng Lương Điền, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình có truyền thống khoa bảng và giàu lòng yêu nước. Ngay từ khi còn nhỏ Đặng Thai Mai đã sớm phải chịu cảnh chia lìa.

Thân phụ ông là phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, bị thực dân pháp bắt trong phong trào Duy tân cùng với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng và bị đày đi Côn Đảo. Đặng Thai Mai sống cùng bà nội từ năm lên 6 tuổi và được bà nuôi dưỡng, giáo dục lòng yêu nước và dạy cho chữ Hán, chữ Quốc ngữ.

Năm 23 tuổi, chàng thanh niên Đặng Thai Mai trở thành sinh viên Trường cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Học xong ông về Huế trở thành thầy giáo của trường Quốc học Huế. Ông bị giặc Pháp bắt giam nhiều năm vì tham gia phong trào "Cứu tế đỏ".

Ra tù ông về Hà Nội, trở thành một trong những người sáng lập ra Trường tư thục Thăng Long, sau đó là Hội truyền bá chữ Quốc ngữ và bắt đầu viết một số truyện ngắn bằng tiếng Pháp nêu gương những người chiến sĩ trong buổi đầu cách mạng.

GS Đặng Thai Mai trong suốt cuộc đời mình đã kinh qua nhiều vị trí: Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Chủ tịch ủy ban Hành chính Thanh Hóa, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hiệu trưởng kiêm Chủ nhiệm khoa Ngữ văn Trường đại học Sư phạm Hà Nội, Viện trưởng Viện Văn học... Có thể thấy GS đã gắn bó trọn đời mình với sự nghiệp văn hóa, giáo dục.

Ông viết văn, viết báo, và nghiên cứu nhiều công trình về văn học nghệ thuật quan trọng rất cần thiết cho người làm công tác văn hóa, văn nghệ, nổi tiếng nhất là cuốn "Văn học khái luận", được đánh giá như một nền móng cho công tác nghiên cứu, lý luận phê bình thời kỳ mới.

Trong đó ông đề cao tiếng Việt như một phương tiện "có đủ khả năng để phát triển, để truyền bá tư tưởng mới, tư tưởng khoa học, tư tưởng dân tộc và dân chủ".--PageBreak--

Một nhận định của ông, cho đến hôm nay, khi nền văn hóa và văn học Việt Nam đã hội nhập vào thế giới chung càng tỏ ra bất biến: "Một điều chắc chắn là không có một tác phẩm nào có thể gọi là độc đáo mà không chan chứa những tính cách điển hình của xã hội, nhưng cũng không có một tác phẩm nào có thể đại biểu một cách xứng đáng cho tinh thần một dân tộc mà lại đồng thời không bao hàm những tính cách phổ biến và sâu xa của nhân loại".

Ông cũng là người đưa nhiều tác phẩm, tác giả văn học lớn của Trung Quốc như Lỗ Tấn, Tào Ngu đến với độc giả Việt Nam> bằng vốn liếng ngoại ngữ phong phú của mình.

GSTS Sử học người Pháp Chasles Fourniau, nguyên Chủ tịch Hội Hữu nghị Pháp- Việt từng kể lại một kỷ niệm về GS Đặng Thai Mai trong một buổi thuyết trình: "Tôi nhìn thấy ông, một người Việt Nam, nghe nói chuyện bằng tiếng Pháp mà lại ghi chép bằng chữ Hán. Ông nói với tôi bằng vẻ khiêm nhường rất tuyệt vời: "Như vậy có thể nhanh hơn".

Mặc dù đã trải qua nhiều vị trí, nhiều vai trò công tác, nhưng GS Đặng Thai Mai trong tâm trí của nhiều người luôn là một người thầy hết mực thương yêu, tận tâm, tận tụy với học trò.

Những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi viết về ông rất cảm động: "Anh chăm những luống xanh/ Cho thời đại con người". Thầy Đặng Thai Mai đã vun xới không ngừng trong suốt cuộc đời mình những "luống xanh", để có những mùa vàng cho đất nước.

Bao thế hệ học trò của ông đã trưởng thành, đã lĩnh hội từ ông trái tim yêu thương và nhân ái với đời sống, với con người và có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc.

PGS-TS Đặng Anh Đào bồi hồi nhớ lại: "Khi đó chúng tôi đều còn rất nhỏ. Ba tôi thường mang về nhà cả tiểu đội học trò của ông, những học trò nghèo không có đủ tiền ăn học. Ông nuôi các học trò trong nhà một cách vui vẻ. Mẹ tôi tối ngày lo cơm nước cho bầy con và các học trò. Tiền bạc kiếm được cha tôi không để dành bao giờ, thậm chí gia đình tôi còn phải đi thuê nhà của một người Pháp. Song, nhà lúc nào cũng phải thật rộng, vì ông còn phải dành chỗ cho bạn bè và học trò của mình nữa".

Thầy Mai là người cực kỳ nghiêm khắc. Những giờ giảng của thầy trên lớp thường để lại những cảm xúc đặc biệt trong tâm trí học trò, nhất là về văn học Pháp. Thầy chú ý đến không chỉ vẻ đẹp tư tưởng của tác phẩm mà còn là vẻ đẹp của ngôn từ, của nhạc điệu trong ngôn từ.

Đọc những tài liệu về GS Đặng Thai Mai, ta có thể bắt gặp nhiều trang viết cảm động của học trò nhiều thế hệ dành cho ông, mà dường như với từng người, quãng thời gian được thầy dìu dắt đã trở thành một thứ của cải quý giá, làm giàu trí tuệ và bồi đắp những tình cảm quan trọng trong cuộc đời họ.

Có thể nói, GS Đặng Thai Mai là người đã biến giảng đường thành thánh đường tôn nghiêm mà ở đó cả thầy và trò đều là những tín đồ của chữ nghĩa, tư tưởng và tri thức. Nghiêm khắc mà gần gũi, ông luôn xem học trò như những người bạn và lúc nào cũng ân cần, vui vẻ.

"Cha tôi có những nỗi buồn lớn, nhưng là những nỗi buồn sâu thẳm về nhân tình thế thái, còn với mọi người xung quanh ông rất niềm nở. Ông nói chuyện rất hóm hỉnh. Tôi nhớ khi ông chồng tôi (ngày đó là một người lính trận mạc từ chiến trường về) đến thăm gia đình, chưa đặt vấn đề tìm hiểu tôi đâu, ba tôi đã rất thân tình trong câu chuyện. Chồng tôi không phải dân văn chương, anh ấy chỉ có những câu chuyện chiến đấu ngoài chiến trường để kể, thế mà tôi thấy cha tôi rất thích thú lắng nghe. Sau này với các con rể, ông cũng xem như những người bạn, không bao giờ xa cách".

Như một loài hoa đã mất đi hình hài trong nhân gian, nhưng hương thơm thì vẫn còn thơm thảo mãi trong từng trang sách và trong hồi ức của mọi người, GS Đặng Thai Mai là một điển hình cho lương tâm và trách nhiệm của một người thầy, một nhà văn hóa. Những người con của ông đã tiếp nối con đường vẻ vang ấy, gìn giữ truyền thống hiếu học tốt đẹp của gia đình.

Tôi nghĩ rằng, không chỉ mỗi người Việt Nam hôm nay, mà cả nền giáo dục của chúng ta, trong cơn bão táp của nền kinh tế thị trường với nguy cơ thiếu hụt nền tảng giáo dục gia đình có thể soi vào câu chuyện cuộc đời GS Đặng Thai Mai và gia đình ông, để kế thừa những bài học quý giá…

.
.