Trai làng

Thứ Hai, 26/09/2016, 08:05
Quả đồi nhỏ gần sông, hơi cách biệt với làng có hình dáng một con rùa. Khi lũ to, nước ngập hết xung quanh, đứng từ cao nhìn xuống càng giống con rùa, đủ cả đầu lẫn chân. Một người hay chữ đi qua phán: "Ai làm nhà chỗ này thì no chứ không giàu. Con trai sinh ra khỏe mạnh, nghịch ngợm, gặp thời có thể thành anh hùng, không gặp thời có thể làm giặc, nhưng dù thế nào cũng vẫn là người tử tế". 

Ông Tác bốn mươi tuổi vẫn chưa có con, nghe vậy dọn nhà ra quả đồi ở. Ông tặc lưỡi: "Thời nay làm gì có ai giàu; may lắm là không đói, thế mà ở đấy lại đủ ăn. Nếu sinh được thằng con trai, nó khỏe mạnh thì còn gì bằng. Nó làm anh hùng hay làm giặc mà tử tế thì đều tốt cả". Mấy năm sau ông sinh được Tộ, lớn đi học được cải là Tô. Sau ông còn sinh thêm được cái Tịa.

Mười sáu tuổi, Tô cao lớn vạm vỡ nổi bật trong đám bạn bè cùng trang lứa, có người tưởng Tô đã hai mươi. Học lớp sáu với Tô phần lớn vắt mũi chưa sạch. Vốn đã chán học, giờ thấy mình lộc ngộc, Tô ì ra không học nữa, chỉ cắp sách đến lớp ngồi hết buổi thì về.

Giờ văn, cô giáo gọi Tô hỏi định nghĩa thế nào là chủ ngữ, vị ngữ. Tô đứng ngay đơ, cả lớp cười ồ. Cô giáo viết lên bảng dòng chữ "Tôi không học bài', bảo Tô phân tích thành phần câu, khoanh dấu tròn từng bộ phận chủ ngữ, vị ngữ. Tô bảo: "Em không biết phân tích. Em chỉ biết phân chuồng với phân xanh. Ở lớp có mỗi cô giáo xưng tôi, còn lại ai cũng xưng em. Nên chữ "tôi" là cô giáo, là chủ ngữ; "không thuộc bài" là vị ngữ. Cả câu là "Cô giáo không thuộc bài". Thưa cô, hết!".

Cô giáo ném sách vở của Tô ra ngoài, bảo Tô về gọi bố mẹ đến xin lỗi nếu không từ nay đừng học giờ văn của cô. Tô chẳng nói chẳng rằng ra ngoài nhặt đá ném thẳng vào lớp, một hòn trúng bắp chân cô giáo, cô kêu "ối" rồi khuỵu xuống, mặt cắt không còn giọt máu. Tô lại đi kéo cành rong rấp vào cửa lớp, nói lớn: "Từ nay thằng Tô đ.. thèm bước vào cái lớp này". Cả lớp dúi dụi rúm vào nhau chết lặng, không đứa nào dám nói nửa lời.

Bố Tô đánh một trận thừa sống thiếu chết, trước sau Tô nhất định bảo không đi học. Ông bố đành chịu, bắt Tô đóng gạch. Đang mùa đông, Tô cởi trần, bắt trâu quần đất gạch, trâu sùi bọt mép không ăn được cỏ. Tô đóng từ sáng đến tối, đóng cả sang đêm, chỉ một tháng đã được mấy vạn gạch chất từng hàng thẳng tắp.

Không cần bố bảo, Tô đi làng bên học mót kỹ thuật vào lò gạch, về tự làm lò, đóng than đốt gạch. Lò gạch cháy ngùn ngụt, đêm đông hồng rực một góc làng như cái bấc đèn hút đám thiêu thân. Ông Gù đi đánh giậm, lão Tạch đi bắt nước, bà Tơ đi đánh trúm đêm đều vào cả chỗ Tô đốt gạch hơ tay, chuyện nổ vang trời.

"Tao lội xuống cái đầm hợp tác đánh trộm một lúc mà đễu quá mày ạ", ông Gù trật cái giỏ đầy ụ lúc nhúc cá trê, cá diếc, cá rô, hào phóng bỏ ra mấy con xóc vào que nướng chia cho mấy người cùng ăn. Lão Tạch thích chí gật gù: "Ướt dái sái hàm, các cụ nói cấm sai. Ông Gù ướt quần thì chúng mình ướt miệng!". Bà Tơ thì phải lòng Tô ra mặt, không ngớt mồm khen, bảo: "Mày có làm rể u, u cho không con Tới".

Tô tủm tỉm trải manh chiếu rách lăn ra ngủ. Ba người tán chuyện một lúc thì đi, lát sau gần như đồng loạt hộc tốc trở lại. Ông Gù thở hổn hển, lay lay Tô: "Dậy, dậy! Có người kêu cứu ngoài sông". Lão Tạch thấp khớp, chân thấp chân cao cũng thập thững chạy vào cùng ông Gù lay Tô: "Dậy ngay! Thằng này ngủ lấy chết hay sao mà say thế? Dậy, dậy, có người kêu cứu!". Bà Tơ thì tru tréo: "Có người chết đuối! Có người chết đuối!…". Tiếng bà tan trong gió, lẫn vào tiếng trời đất rầm rì, tiếng sông nước réo ngoài xa, không lọt tới làng.

Minh họa: Lê Trí Dũng.

Tô vùng dậy mắt nhắm mắt mở, nghe nói cứu người liền ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào làng. Ông Gù nhặt hòn đá ném trúng vai Tô, Tô dừng lại ngơ ngác: "Sao lại ném tôi?". Ông Gù chạy đến, ho rũ rượi: "Mày chạy như gió, tao không ném thì làm thế nào đuổi kịp mày. Không phải trong làng, người kêu cứu ngoài sông…". Tô nghe ra, chạy thẳng ra sông. Ba người sấp ngửa chạy theo.

Lao xuống dòng nước, Tô sải cánh một hồi thì bắt gặp cái bè ghép bằng mấy cây chuối trơn nhẫy có bốn cánh tay ôm chặt không rời. Hai đứa con gái vừa rét vừa khóc không còn kêu được nữa, một đứa sắp lả đi buông tay khỏi cây chuối thì Tô đến kịp. Tô ném một đứa lên bè, xốc nách một đứa, một tay bám bè chuối, chân đạp nước thật lực hướng vào bờ.

Mấy hôm sau nhà hai đứa trẻ thoát chết đến nhận Tô làm anh của chúng. Một trong hai đứa tên là Vân, nhà ở thành phố, học năm đầu cấp ba. Ngày nghỉ Vân đến nhà bác họ chơi. Nhà bác ở gần sông, có chiếc bè chuối thỉnh thoảng ông bác đi vớt bèo. Gần sáng người nhà dậy đi chợ, Vân dậy theo, rủ đứa em ra bè chơi, không ngờ cái bè trôi ra.

Tô bảo bố mua vôi tôi, chặt gỗ ngâm rồi bỏ đi biệt mấy tháng mới về. Ai hỏi cũng chỉ cười. Tô gọi đám thanh niên lau nhau cùng tuổi trong làng đến phụ, đánh vữa, xe cát, tự làm thước, con rọi xây nhà. Thế mà Tô làm được. Mấy ông phó mộc tấm tắc: "Chịu cái thằng này. Thanh niên làng học cho lắm vào rồi hỏng. Cứ như thằng này bố mẹ lại được nhờ". Nhà ông Tác trở thành căn nhà đầu tiên của làng được xây bằng gạch. Nó sừng sững, uy nghi, có vẻ lớn hơn nhiều kích thước thật. Người làng đua nhau đóng gạch, xây nhà. Vài năm sau ngói đỏ cả một vùng.

Một hôm Vân đi xe đầu vênh máy cánh về chơi, cười nhìn Tô đánh độc quần đùi cuốc hố đất trồng cam. "Trông anh như Asin thành Tơroa. À không, phải như Tácdăng mới đúng" - Cô bảo. "Thế là đẹp hay xấu?". "Đẹp tàn bạo, mà lại hoang dã nữa". Tô cũng cười cười: "Còn cô, nếu cô mặc váy thì trông hệt cái cô Liu ba trong phim Đại úy đen". "Thế là đẹp hay xấu?". "Đẹp, quá đẹp. Ở đây lâu lâu mới có phim, tôi chỉ biết ví cô với cô Liu ba. Thực ra cô đẹp hơn, đẹp nhưng xa vời".

Vân khoe đã thi đỗ đại học y, chuẩn bị về Thủ đô nhập học. Vân hỏi Tô có muốn đi chơi Hà Nội không. Tô thật thà bảo: "Tôi chưa đi Thủ đô, giá có tiền đi chơi một chuyến cũng thích". Vân bảo: "Em không giàu nhưng đủ lo được cả hai". Tô nói: "Cái tính tôi nó không giống ai, có tiền thì tiêu, chứ đi tiêu nhờ, mà lại của con gái thì tôi xấu hổ lắm". Vân phụng phịu: "Anh cứ xa cách như người lạ không bằng. Em tự thấy mình còn hơn cả em ruột anh. Em thi đỗ đại học, ai cũng mừng, chỉ có anh chả động viên lấy một câu, lại cứ dửng dưng". Năm lần bảy lượt Vân mời, Tô đều lắc đầu. Vân phi xe máy về mà mắt đỏ hoe.

Chiến tranh phía Bắc, có lệnh tổng động viên, Tô xung phong đi lính, đến lúc có giấy gọi, ông Tác thương con nằm khóc. Tô bảo: "Ở nhà còn em Tịa. Con là trai thời loạn phải có trách nhiệm. Đi một ngày đàng học một sàng khôn, con không chết đâu mà bố lo".

Ngày liên hoan Tô nhập ngũ, thanh niên làng trên xóm dưới kéo đến rất đông. Dịp ấy mới thấy các cô phải lòng Tô có đến cả chục. Tình ý rõ nhất là cô Tới con gái bà Tơ. Cô ăn diện áo pô pơ lin trắng, quần láng Nam Định đen bóng, tất tả chạy lên chạy xuống. Ai cũng đến sớm giúp việc, người nọ ngầm cạnh tranh với người kia.

Vân từ Hà Nội cũng về. Cô ăn mặc giản dị như các cô gái làng mà vẫn nổi bật bởi vẻ đẹp rực rỡ như bông hoa đang độ mãn khai. Mặc những ánh mắt lườm nguýt, Vân đi lại bưng bê, chào hỏi ân cần như con cái trong nhà. Bữa tiệc tàn, thanh niên còn hát hò, nhảy vasilô đến nửa đêm. Vân rủ Tô đi dạo, cô ướm hỏi: "Người ta trốn chả được, anh lại xung phong đi bộ đội, hay là có kế hoạch gì chăng?".

Tô gãi đầu: "Tôi muốn đi đây đi đó một chút. Quanh quẩn ở làng mãi tù túng lắm". "Thế đi lính xong anh định làm gì?". Tô cười: "Tôi không giỏi quy hoạch cuộc đời cô ạ. Cứ được đến đâu hay đến đó. Chả nên cơm cháo gì thì hết nghĩa vụ tôi lại về làng, trồng mía, chăn trâu. Thế được không cô?". Vân bỗng nắm bàn tay Tô, nồng nhiệt: "Anh là người giỏi, khéo tay, định làm gì là làm được. Nay mai đi bộ đội về, anh nên đi học lấy một nghề. Em có người nhà ở sở lao động, em sẽ tìm hiểu xem có nghề nào thích hợp thì báo cho anh. Có chế độ ưu tiên bộ đội xuất ngũ anh ạ".

Tô cười ruồi: "Tôi văn dốt vũ dát, đầu không có óc, chỉ toàn đất sét, học gì nó cũng chuội đi. Có lẽ tôi cứ về đi cày là hơn…". Vân lại xiết tay Tô: "Đừng, anh phải tính cả cho… Em biết anh rất có tài. Như việc anh đóng gạch, xây nhà, trồng mía, cái gì anh cũng làm được. Nhưng đó mới là cái khéo kiểu tự sản tự tiêu thôi, tức là chỉ tự làm cho mình, cùng lắm là giúp bà con xung quanh chứ chưa thành nghề, chưa thành chuyên gia, chưa kiếm tiền thiên hạ được. Anh phải đi học lấy một nghề, nghề gì cũng được, nhưng phải học bài bản, đến đầu đến đũa. Rèn, mộc, cơ khí, sửa chữa… nếu anh giỏi đều có thể mở một cửa hàng sống đàng hoàng được anh ạ".

Tô đi được nửa năm, một hôm Vân phóng xe về gặp ông Tác mếu máo: "Anh Tô bị thương bác ạ. Cháu có anh bạn làm ở bệnh viện quân khu báo cho biết". Ông Tác vội vàng cơm đùm cơm nắm cùng Vân đi thăm con. Tô bị thương ở bả vai và mất một dẻ xương sườn. Thấy bố và Vân đến thăm, Tô cảm động nhưng lại nhăn nhó: "Con có sao đâu mà bố phải vất vả. Ai báo cho bố biết thế?".

Ông Tác sờ nắn khắp người con, có vẻ yên lòng phần nào. Phòng Tô người ra vào tấp nập, hết sĩ quan sư đoàn lại đến sĩ quan quân khu. Ông Tác và Vân muốn nói chuyện riêng một lúc với Tô cũng không được. Buổi tối, cơ quan tuyên huấn quân khu mời cơm ông Tác và Vân.

Một ông Đại tá bảo: "Chúng tôi cảm ơn bác đã sinh cho quân đội một người anh hùng, một dũng sỹ. Đồng chí Tô chiến đấu vô cùng dũng cảm, sáng tạo, lập chiến công rất vẻ vang. Chúng tôi đang đề nghị cấp trên có hình thức khen thưởng xứng đáng cho con trai bác". Lúc ra về, viên sĩ quan tháp tùng ông Đại tá ghé tai Vân nói nhỏ: "Chúc mừng cô và bác! Anh Tô đang được xây dựng điển hình để phong anh hùng".

Hôm sau ông Tác về, Vân còn ở lại chơi với anh. Người ta ý tứ dành cho Tô và Vân một buổi không bị quấy rầy. Tô được quấn băng kín bả vai, một vòng dây đeo một cánh tay trên bụng, anh chống nạng đi lại quanh bệnh viện. Vân kể lại thông tin nghe được hôm qua, Tô cười phá lên: "Thế à? Giờ tôi mới nghe đấy. Thì ra có thứ anh hùng được xây dựng!".

Vân hồn nhiên: "Em nghe nói thế… Anh xứng đáng mà. Anh kể xem đã chiến đấu thế nào?". Tô ngồi xuống một ghế đá, giọng anh nhỏ lại: "Anh hùng gì đâu Vân! Ba đại đội tiểu đoàn tôi giữ một điểm cao. Quân địch tràn lên hết lớp này lớp khác. Lão tiểu đoàn trưởng giả vờ bị thương, lão ấy lợi dụng lúc chiến đấu kê súng bắn vào bàn chân mình để được khiêng ra tuyến sau. Anh em nao núng, một số bỏ chạy.

Tôi nhìn đội hình hỗn loạn biết rằng cứ thế sẽ bị mất điểm cao, ngoài ra anh em cũng bị tiêu diệt hết. Tình thế hiểm nghèo, phía sau không còn đường lùi, tôi hô anh em tiểu đội đứng lên chiến đấu, đằng nào cũng chết thì hãy chết tại vị trí của mình. Cậu bên cạnh bị thương, nạp đạn sẵn cho tôi, tôi đứng thẳng lên kẹp súng vào nách quét xuống hết băng này đến băng khác. Lúc bị thương tôi cũng chẳng thấy đau, cứ nghiến răng bóp cò, cho đến khi ngất đi. May vừa lúc có quân tiếp viện…".

Mắt Tô đỏ hoe nhưng không có giọt lệ nào. Anh thảng thốt: "Vân biết không? Cả tiểu đoàn hy sinh gần hết, trực tiếp chiến đấu từ đầu chỉ còn tôi và lão tiểu đoàn trưởng sống sót. Lão ấy cũng đang điều trị ở đây. Kỳ quặc là lão ấy bảo đã ra lệnh cho tôi chiến đấu cùng anh em lúc đã bị thương. Có khi lão ấy cũng được xây dựng phong anh hùng đấy".

Vết thương lành, Tô được mời đi khắp các đơn vị tuyến đầu, tuyến sau báo cáo thành tích, kể lại hành động anh hùng của mình. Anh rất khó chịu nhưng được cấp trên quán triệt đó là nhiệm vụ nên đành tuân lệnh. Diễn biến trận đánh, suy nghĩ của anh trong lúc đánh địch cũng được biên soạn lại phục vụ mục đích tuyên truyền. Anh kể về trận đánh của mình mà như đọc một câu chuyện khác của ai.

Một lần cả anh và tiểu đoàn trưởng cùng được mời báo cáo ở một học viện. Nghe gã tiểu đoàn trưởng thao thao nói mình đã gan dạ thế nào, mưu trí ra sao, ra lệnh anh em lúc đánh lúc ngừng thế nào để vừa tiêu diệt được nhiều sinh lực địch vừa tiết kiệm đạn và nhất là tiết kiệm được xương máu bộ đội; thỉnh thoảng lão lại giơ bàn chân bị thương còn băng trắng tinh ra khoe như khoe tấm huân chương, Tô thấy buồn nôn. Đến lượt mình, Tô kêu đau đầu không báo cáo được.

Vào hậu trường, Tô túm cổ lão tiểu đoàn trưởng, gầm lên: "Đồ hèn! Mày trơ tráo đểu cáng đến thế là cùng, bao nhiêu anh em chết oan vì mày!". Lão tiểu đoàn trưởng lạnh lùng: "Đồng chí đang xúc phạm cấp trên. Tôi yêu cầu đồng chí bỏ tay ra ngay". Tô quai thẳng một cú vào giữa cái miệng ướt át của lão làm lão gục xuống, máu me đầy mồm.

Vệ binh ngay lập tức bắt giữ Tô. Anh không buồn trả lời lý do vì sao đánh cấp trên. Với tội danh ấy, anh có thể bị đưa ra tòa án binh, hay ít nhất cũng bị tước quân tịch đuổi về địa phương; song chiếu cố thành tích của anh và lời cầu xin của lão tiểu đoàn trưởng, quân đội cho anh phục viên.

Tô về, lại cấy lúa, trồng khoai, trồng mía. Tô đan một chiếc thuyền và trở thành người lái đò qua sông.

Vân về thăm anh, thông báo một tin đặc biệt, cô được chọn đi du học ở Cộng hòa Dân chủ Đức và muốn hỏi ý kiến anh. Tô cười: "Ý kiến ý cọt gì. Em học giỏi mới được chọn đi thì đi chứ còn gì nữa". Vân nói như sắp bật khóc: "Việc hệ trọng mà anh vẫn còn đùa. Nếu anh bảo ở lại thì em ở lại, anh bảo phải đi thì em mới đi". "Thì anh bảo em đi mà", Tô vẫn cười.

Vân gắt: "Em đi nhưng anh phải thế nào chứ?". Tô ngớ ra: "Thế nào là thế nào? Anh vẫn chèo đò đây. Em có muốn nghe anh hò không?". Nói rồi Tô cất tiếng hò: "Ơ hò… Thuyền nương con sóng sang sông. Em qua bên ấy lấy chồng thì thôi…". Vân ôm mặt khóc đi về.

Một hôm, Tô đang nằm chờ khách thì mấy thanh niên làng ra gọi: "Anh Tô, bảo vệ thủy sản bắn chết người!". Tô bật dậy chạy theo đám thanh niên làng. Xí nghiệp thủy sản chăn thả cá và bảo vệ nghiêm ngặt, năm nào cũng bắn chết người ăn trộm. Hòa vào dòng người đông đảo đang bị kích động mạnh lên tới hàng trăm, bà Tơ vung cây gậy gào khản cổ: "Cứt cá lá rau! Đói khổ người ta ăn trộm con cá mà bắn người như bắn giặc. Tìm thằng nào bắn chết người, mạng đền mạng!".

Bà con ào vào xí nghiệp thủy sản, cán bộ công nhân xí nghiệp khiếp vía kinh hồn chạy tháo thân. Từ văn phòng xí nghiệp đến các đội sản xuất vắng hoe. Ông Giám đốc béo bụng lập cập ra định phân trần thì bị đám thanh niên tọng mấy quả vào bụng gục xuống van xin rối rít. Chưa hả giận, mái nhà xí nghiệp bị ném đá ngói thủng lỗ chỗ, tường xây dở bị lật nhào, chiếc xe díp vô tội, món tài sản đáng giá nhất của xí nghiệp nằm trơ như con cóc cụ trong ga ra bị châm lửa cháy ngùn ngụt…

Cơ ngơi xí nghiệp thủy sản có lẽ sẽ bị phá tan tành nếu không có đội Công an huyện nhận tin cấp báo được điều về vãn hồi trật tự. Đích thân ông Chủ tịch, Bí thư Huyện ủy đứng ra nói chuyện úy lạo bà con. Đến hai hôm sau cơn điên giận của người làng mới nguôi phần nào.

Hình thành một vụ án, Tô bị coi là kẻ cầm đầu vụ bạo loạn. Tội danh của anh được xác định nằm trong khung mười hai năm tù giam; song một lần nữa thành tích thời kỳ quân ngũ lại giúp anh được giảm án còn tám năm tù.

Ra tù, anh hơn ba mươi tuổi, tóc bạc gần nửa. Bố mẹ lần lượt qua đời lúc anh ở trong tù. Cô Tịa em anh đã kịp lấy chồng, sinh con và ở luôn tại căn nhà anh xây cho bố trước đây. Anh làm một túp lều nhỏ góc vườn kế bến đò và cưới cô Tới, người vẫn yêu anh như năm xưa làm vợ. Ngày tháng trôi, vợ chồng anh sinh được ba đứa con, hai trai một gái. Tai ương tiếp tục đổ xuống đầu anh khi vợ anh một lần đi làm đồng bị cảm nắng mất.

Sáu mươi tuổi, mái đầu bạc trắng, Tô vẫn tráng kiện, hồng hào, tuy hàm răng đã rụng một nửa. Ông ít nói hơn xưa, nhưng ở ông luôn toát lên một vẻ tự chủ cao độ, khiến người tiếp xúc phải vị nể. Bến đò của ông không còn nữa, ở đó đã có cây cầu xi măng vĩnh cửu thay thế. Các con lớn khôn, hai đứa con trai lấy vợ, lập nghiệp tại làng, nay đã ra dáng một thị trấn sầm uất bán buôn tấp nập.

Cô con gái lấy chồng về thành phố. Đàn con cực kỳ chiều chuộng người bố đã hy sinh cả đời vì chúng. Góa vợ sớm, ông ở vậy nuôi con, chúng không dám phiền đến ông bất cứ việc gì và tôn trọng tuyệt đối sở thích, lựa chọn cá nhân của ông. Ông chăn một con trâu làm vui, đan một chiếc thuyền nhỏ, chiều chiều đi thả nắm lưới và giắt sau lưng cút rượu. Nướng cá, uống rượu, buồn ngủ ông ngủ luôn tại thuyền, úp chiếc nón lên mặt.

Ngày nọ, một chiếc xe hơi đời mới chạy lại sịch đỗ trước cửa nhà ông Tác xưa, nay là nhà bà Tịa. Một người đàn bà trung tuổi sang trọng bước xuống hỏi thăm ông Tô, con bà Tịa chỉ ra phía chân cầu.

Người đàn bà không quản quãng đường bùn đất, xắn cao quần lội qua mấy vũng nước đến chân cầu cất tiếng gọi ông Tô. Đến lần thứ ba, ông Tô mới bỏ chiếc nón úp mặt từ từ ngồi dậy trên thuyền. Nhận ra bà, ông không buồn, không vui, nhưng ông bỏ con thuyền lên bờ ngồi cùng người đàn bà: "Lâu quá rồi nhỉ? Tôi biết sẽ có ngày bà về thăm tôi!".

Người đàn bà lôi trong chiếc túi nhỏ mấy quả xoài gọt mời ông ăn, uống cùng ông hớp rượu. Hồi lâu, bà nói: "Em vẫn hỏi thăm, vẫn biết chính xác hầu hết những gì quan trọng diễn ra trong cuộc đời anh. Giá như anh nhớ em, gọi em một tiếng, em sẽ bỏ tất cả về bên anh… Nhưng anh ngang tàng lắm, có bao giờ anh thèm để ý đến em đâu!".

Ông Tô ngồi lặng, một niềm tiếc nuối, đau đớn sâu xa hiện lên: "Tôi chưa một phút nào quên bà… Bà là mối tình lớn nhất, duy nhất của cuộc đời tôi… Tuổi tôi với bà nói thế này thật không phải… Tôi may mắn được gặp bà, nhưng tôi với bà không nên duyên phận. Tôi phải quên bà đi, không phải vì tôi mà vì bà. Bà có con đường của bà, tôi không thể làm gánh nặng cho cuộc đời bà.

Tôi là gã trai làng ít học, không chịu học, có thừa sức lực, thừa can đảm nhưng thiếu đầu óc. Tôi là con của làng, thuộc về làng. Tôi cũng từng đấu tranh với số phận, hòng làm được gì đó xứng đáng với bà. Nhưng mỗi lần tôi chòi lên thì lại bị đạp xuống, lần sau đau hơn lần trước, khó làm lại hơn lần trước. Tôi biết bà đã có một cuộc sống tốt, thế là tôi mừng".

Người đàn bà rút khăn tay, không cầm được nước mắt: "Giá ngày xưa anh nói nửa câu như vừa rồi để em khỏi bán tin bán nghi thì nhất định chúng mình có nhau, trả giá nào em cũng trả. Và chắc mình sẽ hạnh phúc, không lý gì người có tấm lòng như anh, sức lực như anh, tài hoa như anh mà không hạnh phúc… Em cũng có một cuộc sống bình thường như anh nói, không oán giận, trách móc gì. Cách đây ba năm, chồng em mắc bệnh hiểm nghèo đã qua đời. Các con em trưởng thành cả, chúng đều có cuộc sống riêng. Em về đây tìm anh, chỉ có một tâm nguyện được rước anh về chúng mình nương tựa nhau lúc tuổi già. Cho em được chăm sóc anh lần cuối". Ông Tô bỗng rơi nước mắt, lần đầu tiên trong đời ông khóc: "Tôi cảm ơn tình ý của bà! Cho tôi lạy bà một lạy này! Được giãi bày với bà tôi thật nhẹ lòng. Nhưng tôi ở đây thôi, với dòng sông, con thuyền, con trâu, với làng, với tôi thế là đủ. Kiếp sau tôi xin được trả nợ bà!".

Hai người còn ngồi với nhau đến tận cuối chiều. Không rõ họ đã nói chuyện gì, bà Tịa bảo lúc người đàn bà về, bà có ngờ ngợ nhưng không nhận ra ai. Và người đàn bà có vẻ vội vàng, bịt khăn trùm kín mặt trông như đã khóc.

Lời kết

Tôi, người ghi lại chuyện này từ lời kể của bà Tịa, con bà Tịa và vài người làng trong một buổi sáng qua cây cầu bắc gần bến ông Tô. Nhìn từ trên độ cao của cây cầu vào mùa lũ, quả đồi nhỏ nhà bà Tịa giống hệt con rùa đủ cả đầu lẫn chân. Những vệt san ủi lại trông như con rùa bị mổ phanh từ phía lưng.

Đó là lần có trận lụt khủng khiếp xảy ra ở vùng này, trận lụt lớn vài chục năm mới diễn ra một bận. Cơn lũ quét dọc hai bên bờ sông, cuốn theo nhà cửa trôi lều bều, tiếng kêu cứu thảm thiết vang trên dòng sông tối lạnh, vào lúc mọi nhà còn kinh hoàng be bịt cho mình và gia đình mình. Cơn lũ lấy đi mạng sống của cả trăm người. Ông Tô với con thuyền của mình đã bơi trên sóng nước suốt đêm cứu được mấy mươi người. Nhưng như một lẽ bù trừ của Hà Bá độc ác, không hiểu thế nào một người ngang dọc sông nước như ông lại bị lật thuyền đuối nước lúc gần sáng.

Khi tôi đi qua, cả một đoạn đường dài bị tắc, trắng xóa khăn tang. Và đám tang ông Tô là một sự kiện chưa từng có ở làng. Hàng vạn người đến phúng viếng, đưa tiễn ông, người anh hùng của nhân dân. Tôi cũng tham gia cùng đoàn người ấy. Trong những người chít khăn để tang ông có cả rất nhiều người được ông cứu sống và thân nhân của họ. Nổi bật là một người đàn bà khoảng sáu mươi tuổi, đẹp lạ lùng đi cạnh linh cữu ông nhưng không rơi nước mắt. Bà Tịa bảo đó là bà Vân, sau đó kể lại cho tôi nghe câu chuyện về ông Tô, anh bà và mối tình với người đàn bà này.

Câu chuyện lẽ ra kết thúc ở đây, nhưng mới rồi tôi nghe được thêm một thông tin. Ấy là bà Vân, sau khi ông Tô ra đi, đã làm điện thờ tại nhà và xuống tóc tu tại gia. Tôi chưa có thời gian, điều kiện tìm hiểu thêm. Âu cũng là số phận? 

Truyện ngắn của Dương Quốc Hải
.
.