Người lái đò độc thân

Thứ Sáu, 14/12/2012, 09:00

Giăng lưới xong, lão Ngũ khoát tay bơi vòng nữa rồi trườn vào bờ, nhẹ nhàng gối đầu lên vạt cỏ. Một khóm lục bình lừ lừ trôi đến, những cái rễ ram ráp, âm ấm cọ vào cổ, vào ngực. Lão chợt thấy có gì chộn rộn. Một cảm giác vừa gần gũi vừa xa xăm ùa về xâm chiếm tâm hồn lão…

Hồi còn làm lính trinh sát, bao nhiêu lần dầm sông, đội lục bình đi trinh sát, lão không thể nhớ hết. Những khóm lục bình trở nên thân thiết với lão trong những đêm lẻ loi nơi sông lạnh. Chắc chẳng bao giờ lão có thể quên được cái cảm giác nhồn nhột, ngưa ngứa và sau đó là âm ấm, ran ran thật dễ chịu của rễ lục bình cà vào cổ, vào mặt… Đời lão có lẽ sẽ gắn bó suốt đời với sông nước như là định mệnh!

                         *

- Sáng ngày ra đã nhỡ đò. Bực hết cả mình! - Chị hàng chuối gầy như con chão chàng vừa loay hoay chống chiếc xe, thồ hai sọt chuối to tướng vừa làu bàu.

- Thế còn khá chán - Chị hàng cá đay đả - Hồi trước mụ Thuyên còn chở đò ở đây á. Bảnh mắt mụ vẫn chưa thèm dậy. Bao nhiêu lần chị em mình chả muộn chợ là gì.

 - Cả bọn học sinh nữa, suốt ngày bị muộn học - Bà Béo góp lời - Mà này, cô có vẻ thích lão nhỉ? Lần nào qua sông cũng liếc lão đến lệch cả đò còn gì!

 - Đây không thèm! - "Hàng cá" cong làn môi mỏng - Trông khỏe mạnh vậy mà có vấn đề. Ai đời thấy đàn bà mà cứ dửng dưng như không, mắt thì lạnh tanh, vô cảm!

- Đùa tí cho may, làm gì mà đã định nổi xung lên thế? - Bà Béo cười cười, giục - Đò sang đến rồi kìa!

Mọi người lục tục đứng dậy, ai nấy đều chuẩn bị sẵn tiền lẻ trên tay. Con đò ghé mũi vào mép nước. Lão Ngũ nhẩy lên bờ, quàng chiếc chão vào cây cọc ghim.

Con đò không còn trọng lượng khẽ chòng chành, chòng chành…

Nhìn lão vuốt vuốt mấy tờ bạc lẻ nhăn nhúm cho phẳng phiu rồi cẩn thận nhét vào chiếc ví đã cũ rích. "Hàng cá" liếc xéo một cái sắc như cật nứa, lẩm bẩm: "Đúng là cái đồ…Nom mặt cứ tưởng hiền lành, vậy mà…". Chẳng biết có nghe được hay không, chỉ thấy lão bình thản nhét cái ví vào túi quần, đến mép nước, khẽ đưa chân vừa hẩy nhẹ đuôi thuyền vừa bước xuống êm như mèo. Mái chèo khua nhẹ, làm chẻ ra hai bên mạn thuyền những làn nước xiết sâu xuống lòng sông. Con thuyền quay mũi, hướng sang phía bờ tả.

"Hàng cá" chắc "cay" lão Ngũ từ cái lần đầu tiên lão chở đò ở bến Gáo. Quen bắt nạt cô Thuyên hiền lành - người "tiền nhiệm" của lão Ngũ - nhiều lần đi đò nợ tiền, rồi lâu ngày lờ đi. Biết thừa khách đi đò, lão Ngũ đề tấm biển to tướng ở đầu bến: "Đề nghị khách cho xin tiền trước". Thế mà "Hàng cá" vẫn vờ như không biết:

- Lát về chợ trả một thể. Vừa mới sáng ngày ra…

- Không được! - Lão Ngũ vẫn từ tốn - Tôi đã quy định rồi. Ai cũng phải thực hiện, nếu muốn sang sông.

Biết có năn nỉ cũng vô ích, hơn nữa bị mọi người thúc vì làm chậm đò, "hàng cá" bực bội lần tay vào cạp quần, lôi ra cái túi rút màu cháo lòng. Đập mấy nghìn vào bàn tay to bè, thô ráp của lão Ngũ, bâng quơ: "Mấy ông Nhà nước mải làm gì không biết. Có con sông cỏn con mà không bắc nổi cái cầu. Thế này thì bằng giết dân à".

Chẳng cứ "hàng cá", mấy tay lái lợn cũng "cú" lão Ngũ lắm. Bắt được con lợn, dùng mọi thủ thuật, vật nài lên xuống, trả giá mới vớ được vài chục nghìn. Vậy mà qua sông, nhoằng một cái, lão "chém" gấp đôi, gấp ba lúc đi một mình. Thôi thì muốn được việc, cứ là phải "nôn" ra. Lão đã nói một là một, cấm nài nỉ, lay chuyển được. Nhiều tay máu mặt cũng có ý gầm ghè, song cứ nhìn cánh tay cơ bắp như chão bện, khuôn ngực vồng lên sau làn áo đông xuân và nhất là thân hình như tượng đồng của lão mà hậm hực.

Tức thì tức vậy, song ai cũng phải thừa nhận việc lão Ngũ có mặt ở bến Gáo này là cần thiết. Trước đây, thời cô Thuyên còn chở đò, cứ sâm sẩm tối, khách có van lạy cách mấy cô cũng nhất quyết không chở. Lão Ngũ thì ngược lại. Đêm hôm, mưa gió, bất kể lúc nào khách có nhu cầu qua sông, lão đều đáp ứng. Chỉ có điều giá cả cũng phải tăng lên gấp hai, gấp ba lúc bình thường. Công bằng mà nói, lão làm nghề có trách nhiệm, tay chèo vững, trang bị trên đò tốt, đủ đầy mọi thứ từ phao cứu sinh cho đến tủ thuốc "gia đình".

Minh họa: Lê Tiến Vượng.

Bến Gáo chỉ cách làng non ba cây số mà cứ như vùng sâu vùng xa vậy, mới sâm sẩm tối đã vắng hoe, vắng hoét. Trăng mười hai như quả bưởi gầy lấp ló sau làn mây mỏng. Cơm nước xong, lão Ngũ mang chiếc võng dù ra mắc vào hai thân tre ở đầu bến nằm hóng gió. Hơi nước từ mặt sông thổi lên rười rượi. Mây dần tan, ánh trăng lại như vãi bạc xuống mặt sông óng ánh. Chẳng hiểu sao, cứ những đêm trăng sáng thì hầu như lại không có khách đi đò. Lão nằm ngắm trăng và chợt nhận ra đâu phải chỉ riêng mình lão lẻ loi giữa trời đất! Đúng rồi. Lão bật dậy. Trăng sáng thế này mà ngồi không cũng phí! Mình phải tranh thủ làm ít cỏ lúa mới được. Những rẻo đất đầu thừa đuôi thẹo, những thùng vũng, làn lém gần bến Gáo bỏ hoang lâu nay. Tranh thủ những đêm trăng sáng lão hì hục san lấp, cào cuốc thành những mảnh ruộng nho nhỏ. Phân hóa học không có, lão chỉ dùng toàn phân xanh được ủ từ lá chuối, lục bình bón cho lúa. Vậy mà lạ thay, những mảnh ruộng con con của lão cứ tốt bời bời, nhìn mát cả mắt! Thiên hạ bảo lão khác người! Cứ cho là như thế đi. Song lão cảm thấy làm cỏ lúa ban đêm cũng có cái thú riêng của nó. Những cây lúa về đêm như cũng muốn làm duyên với ánh trăng sóng sánh, bỗng trở nên mềm mại hơn thì phải! Từng lá lúa đẫm sương như mái tóc con gái vừa gội xong mát lạnh xõa vào má. Rồi cái mùi nồng nồng, ngai ngái rất đặc trưng của bùn ruộng xộc vào mũi, nhưng không gây khó chịu mà trái lại nó làm lão cảm giác bao nhiêu tinh túy, bao nhiêu đằm ngọt của đồng quê đang thấm vào từng tế bào, làm con người lão vô cùng sảng khoái. Tiếng côn trùng ri rỉ, tiếng ếch nhái ì ộp gọi bạn tình.  Thỉnh thoảng một con vạc giật mình bay vút lên "vạc vạc" hoảng hốt… Ai bảo đêm khuya tĩnh mịch? Đêm với lão thật sống động và trong trẻo. Có lần vừa cào cỏ lão vừa ư ử hát làm mấy tay choai choai đi chơi về khuya tưởng ma trêu chạy văng cả dép. Thực ra làm cỏ lúa ban đêm ngoài cái thú  trên, lão còn có một lý do nữa: Canh chừng bọn trộm chuối.

Dọc bờ sông gần bến Gáo, lão trồng toàn chuối "sài goòng". Cứ hai mét một cây. Khi cây thành khóm, lão chỉ để lại đúng ba cây đẹp nhất, còn chặt bỏ. Mỗi khóm tạo thành thế chân kiềng. Ba thân cây to tròn, nhẵn bóng, vươn cao. Dại nắng, dại gió chuối của lão lớn nhanh như thổi. Lão thường xuyên "làm cỏ" cho cây, chặt bỏ tầu già, tầu úa, vun bùn tươi vào từng gốc. Những cây chuối đều đặn, mập mạp, không bị sâu bệnh, nên ra buồng nào là được buồng đó. Những buồng chuối to, dài, quả đẫy đà, béo mập. Chị hàng chuối là khách thường xuyên của lão. Phải nói giá chuối của lão cũng hơi "chát". Song bù lại mã rất đẹp, nên bán chạy lắm. Nhất là ngày rằm, mồng một, nếu cất chuối của lão đi bán thì cứ gọi là đắt còn hơn tôm tươi!

Mấy tay chuyên đi trộm chuối kháo nhau: Lão Ngũ cứ như ma vậy. Rõ ràng lão đang lúi húi ở ruộng lúa. Vậy mà thuyền của bọn chúng vừa sà gần vào bờ chuối, đã thấy lão bơi thùm thùm dưới bến. Thế là khôn hồn thì chuồn cho sớm. Lão mà vớ được, cứ gọi là uống no nước!

Nhớ cái lần thằng bé con nhà Tuấn thợ thịt đi học qua đò bị đau bụng. Lão cõng nó chạy bộ gần chục cây số đến bệnh viện Huyện. Bác sĩ nói chỉ chậm nửa giờ nữa thì hết cứu. Ngày thằng bé ra viện, vợ chồng nhà Tuấn dắt con đến tạ ơn lão và muốn xin cho nó nhận lão làm bố nuôi. Lão Ngũ nhất định không chịu, lão bảo không thích có sự ràng buộc nào. Riêng hai đôi vịt bầu béo múp, lão nhận ngay. Hai đôi vịt ấy lão thả sông nuôi, vậy là thoải mái trứng ăn, lại còn được bán nữa!...

Làm cỏ chán, lão lại xuống sông thả lưới. Nhiều hôm nước ròng lão cũng bắt được vô khối cá. Để một ít ăn, còn lại sáng hôm sau lão bán cất cho "hàng cá", kiếm thêm ít tiền.

Thiên hạ xì xèo: Lão Ngũ nhiều tiền lắm. Gần hai chục năm chèo đò chẳng chi tiêu gì, ăn uống đơn giản, vợ con, gia đình lại không có, tiền để đâu cho hết. Thi thoảng cũng có thấy lão đạp xe đi đâu đó một hai tiếng rồi lại về ngay. Lão có ai thân thích đâu nhỉ? Mà cái khoản kia thì chắc lại càng không!

                        *

- Này, lâu nay bà có thấy lão Ngũ khang khác không? - "Hàng cá" vừa rảo chân vừa hỏi bà Béo.

- Khác là khác thế nào? - Bà Béo đang lạch bạch bước, hỏi lại.

- Thì đấy - Giọng "hàng cá" như chùng xuống - Lão chèo đò mà cứ như người mất hồn ấy. Có lúc chân loạng choạng, tay thì tí nữa trượt khỏi bai chèo… Hay lão ấy ốm nhỉ?

- Ôi giời - Bà Béo nhổ toẹt bã trầu - Ốm ốm cái nỗi gì. Ốm tiền thì có. Còn không, lão đã chẳng nghỉ đò. Lão ấy mà chê tiền có là chuyện lạ!

"Hàng cá" im lặng, nhưng những suy nghĩ không hiểu sao cứ vẩn vơ trong đầu… Đúng là lão có chuyện rồi!… Ánh mắt lúc thì đờ đẫn, khi lại buồn xa xăm, như thể lão đang nuối tiếc điều gì đó? Nước da bánh mật nom sạm lại làm lão trông  già hẳn đi…

Rồi một sáng như mọi sáng.

Bến Gáo hiện ra trong làn sương sớm mỏng mảnh. Con đò nằm im lìm nom mới cô đơn làm sao. Chẳng thấy bóng dáng lão Ngũ đâu. Chờ một lúc, sốt ruột, "hàng cá" mới đập cửa mà réo. Không có ai trả lời, sinh nghi "hàng cá" đẩy cửa, đã thấy lão Ngũ sóng soài trên nền nhà. Nghe tiếng "ối giời ơi", bà Béo lạch bạch chạy vào. Vừa lúc "hàng cá" xô ra, vừa chạy vừa la "Làng nước ơi, có người chết, lão Ngũ chết"…

Đội pháp y sau khi khám nghiệm tử thi kết luận lão bị một cơn đột quỵ chắc khá lâu, người đã lạnh cứng. Vì có vài điểm còn nghi vấn, họ lấy mẫu tế bào đi xét nghiệm. Hôm sau có tin lão Ngũ bị phơi nhiễm chất độc da cam. Và có thể đó là nguyên nhân dẫn đến cái chết bất ngờ của lão. Có người chép miệng: "Rõ khổ. Vợ con đã không có lại còn da cam với chả da quýt". Cũng có kẻ bạc mồm: "Ai bảo lão tham cho lắm vào. Làm ngày làm đêm. Ngu thì cho chết!".

Đám ma lão Ngũ khá đông. Cả cái làng Gáo này, ai mà chả hơn một lần được lão đưa sang bến. Thôi thì nghĩa tử là nghĩa tận. Vả lại thời gian này mùa màng cũng chưa tới.

Hàng cờ tang ủ rũ, hai chiếc vòng hoa của xã và thôn héo tóp dưới cái nắng đầu mùa oi ả. Không một vành khăn trắng. Bởi vậy, đám tang như chẳng có vẻ gì ai oán. Chỉ cái không khí oi nồng, ngột ngạt như báo hiệu điều gì đó không bình thường…

Gần đến giờ chuyển cữu, trai đinh trong làng đã rục rịch sắp xếp đòn khiêng, chợt ngoài đường có tiếng xe phanh gấp. Một chiếc xe con đỗ xịch trước nhà đám. Cửa xe bật mở, người phụ nữ cùng hai người đàn ông trung tuổi bước xuống.

Người đàn ông dong dỏng, dáng nhanh nhẹn bước ra sau xe mở cốp. Người phụ nữ tiến lại giúp anh ta nhắc chiếc vòng hoa có dòng chữ: "Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Giang Hưng kính viếng". Cả ba tiến nhanh về phía bàn tang lễ. "Chà. Lão Ngũ gớm thật. Chắc phải gửi nhiều tiền lắm, Ngân hàng huyện mới lặn lội về tận nơi phúng viếng như thế". Có tiếng xì xào vẻ ghen tỵ: "Chứ lại không à. Gần hai chục năm chở đò, không có tiền mới là chuyện lạ". Một giọng khác nghe ráo hoảnh: "Dưng mà tiền đó giờ ai hưởng?".

Người đàn ông thấp đậm, gương mặt cương nghị đặt lễ lên bàn thờ rồi quay ra đưa cho hai người đi cùng mấy thẻ hương đã châm sẵn. Cả ba thắp hương, thành kính cúi đầu. Mọi người chăm chú dõi theo từng cử chỉ, hành động của ba vị khách mới đến.

Người "thấp đậm" ánh mắt đượm buồn, cúi đầu thay cho lời chào, đón lấy micro, cất giọng từ tốn:

 -  Kính thưa hương hồn ông Phạm Văn Ngũ! Thưa toàn thể bà con! Chúng tôi vô cùng bất ngờ khi nhận được tin ông Ngũ từ trần. Thật đúng là sinh có hạn, tử bất kỳ. Trong giờ phút đau buồn này, chúng tôi thay mặt toàn thể cán bộ, công nhân viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện có vòng hoa tươi, nén hương thơm, tưởng nhớ vong linh người quá cố.

 "Lão Ngũ thế mà tốt số, được các sếp mãi trên huyện về thắp hương cơ đấy". "Chuyện. Bao nhiêu tiền của lão, giờ chắc sung công quỹ tất. Phen này ối anh vớ bẫm!" - Tiếng xì xào lại nổi lên.

- Kính thưa toàn thể bà con! - Ông "thấp đậm" lại cất tiếng - Trước vong linh người đã khuất, tôi xin được đọc bản di chúc ông Ngũ đã tin tưởng giao cho Ngân hàng chúng tôi…

Ồ. Thật là chuyện lạ chưa từng có ở cái làng Gáo này. Lần đầu tiên có người viết di chúc để lại. Mà không hiểu lão Ngũ viết gì trong đó! Đám ma im phăng phắc. Không gian như quánh lại, ngột ngạt. Mùi hương trầm quyện với hơi người, với cái nóng đã bắt đầu hừng hực, làm ai nấy đều cảm thấy bứt rứt, khó chịu. Vẻ nôn nóng, sốt ruột, hiện rõ trên từng ánh mắt…

- "Tôi là Phạm Văn Ngũ. Làm nghề chèo đò ở bến Gáo - Giọng  ông "thấp đậm" nghẹn nghào - Tôi đã coi làng Gáo như quê hương thứ hai của mình. Từ lâu, tôi đã ao ước bến Gáo có được một cây cầu thì hay biết mấy. Gần đây thấy sức khỏe không được tốt. Có lẽ vết thương cũ đã đến lúc giở chứng. Chắc tôi không thể thực hiện được mơ ước của mình. Tôi viết di chúc này, xin trao lại số tiền gom góp được trong thời gian qua để ủy ban xã làm chiếc cầu nhỏ để bà con đi tạm trước khi Nhà nước xây cầu kiên cố ở bến Gáo. Được như vậy tôi vô cùng mãn nguyện…".

Người đàn ông thấp đậm giơ cao tờ di chúc, vái ba vái rồi đặt lên trước bàn thờ. Có tiếng sụt sịt, rồi những tiếng nấc như bị kìm nén đã lâu, bật ra… Đoàn nhạc tang nổi hồi trống lệnh chuẩn bị cất đám. Bỗng bát hương trên bàn thờ bùng cháy. Khuôn mặt lão Ngũ chợt lung linh, lung linh, làm khóe miệng lão như đang mỉm cười hiền từ. Không gian oi bức chợt dịu đi. Một làn gió mát từ mặt sông òa tới. Những chiếc cờ tang ủ rũ như bừng tỉnh, bay phần phật. Dòng người đưa đám cứ dài mãi, dài mãi dọc triền sông…

Đ.T.
.
.