Cô Lin những ngày biển thức

Thứ Ba, 29/07/2014, 08:00
Với hải trình dài 10 ngày trên con tàu HQ996, chúng tôi đã đến Trường Sa. Biển vẫn ồn ào và phóng khoáng tỏa nắng lênh loang trên khắp bề mặt các đảo. Gió mê mải thổi khiến hàng chục cánh quạt trên hệ thống điện chạy bằng sức gió quay đến chóng mặt và sóng thì thỏa thuê dội vào bờ kè trắng xóa. Hoa phong ba nở từng chùm nhỏ trắng xinh, tươi như nụ cười lính trẻ.

Rồi tôi cũng đã chính thức đặt chân lên Cô Lin, điểm đảo chỉ nhỏ như một vết chấm trên bản đồ song đã đi vào lịch sử nước nhà bằng những chiến công bi tráng mà tôi luôn mong có dịp đến đây. 26 năm trước, cái tam giác Cô Lin - Len Đao - Gạc Ma ấy đã trở thành "tam giác máu", là bằng chứng cho sự bội tín của những người đồng chí phương Bắc. Nhưng vượt qua chừng ấy năm, nỗi đau không hề nguôi và vùng biển mang tên "tam giác máu" năm nào vẫn luôn là "tam giác lửa", vẫn còn nguyên sự căng thẳng, trạng thái báo động sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biển - đảo của hải quân Việt Nam trước những hành động hung hăng, khiêu khích của lính Trung Quốc ở điểm Gạc Ma ngay bên cạnh.

Trước khi tiến vào Cô Lin, tàu của chúng tôi dừng lại tại vùng biển Gạc Ma để làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến bảo vệ chủ quyền năm 1988. Vùng biển này còn có một tên gọi buốt xói khác là "nghĩa trang máu" do những người lính hải quân đặt. Khi tàu HQ996 thả neo, nhất loạt những con tàu phòng hộ tên lửa mang tên Giang Vệ thuộc hạm đội Nam Hải, Đông Hải của Trung Quốc nhất loạt quay mũi về phía chúng tôi nửa như hăm dọa, nửa như dè chừng. Trung úy Tiến Minh - chiến sĩ lái xuồng CQ (xuồng chủ quyền) trên tàu HQ996 nói với tôi rằng, những vòng hoa thả xuống biển luôn trôi về Gạc Ma. Lính Trung Quốc vẫn thường cho xuồng ra vớt để hoa không dạt vào chân đảo. Mặc dù Minh lý giải rằng đó là do dòng biển, song trong thâm tâm, tôi vẫn tin rằng anh linh 64 người lính đã nằm lại "tam giác lửa" này đã dìu hoa về phương ấy, dìu về nơi máu thịt của Trường Sa.

Với giọng nói của dân Nam Bộ, Đại úy Trương Hồng Phượng, chỉ huy đảo Cô Lin đưa chúng tôi đi thăm đảo. Anh cho biết, năm nào phía Gạc Ma cũng tiến hành từ hai đến ba đợt diễn tập đổ bộ có sự phối hợp của máy bay và tàu chiến hiện đại. Các tàu vận tải đường biển, tàu phòng hộ tên lửa, hải giám, hải tuần, ngư chính, kiểm ngư cũng thường xuyên đi tuần đến Gạc Ma không theo một quy luật nào. Hẳn đó là một trong những lý do mà 26 năm qua, cùng với Len Đao, Cô Lin đêm nào cũng thức. Những người lính Cô Lin đêm nào cũng chong mắt dõi biển xa, ngón tay luôn áp trên cò súng.

Đảo Cô Lin trong ngày giông gió.

Là đảo cấp 3 với bãi đá ngầm dựng đứng nên việc di chuyển để vào đảo rất khó khăn, ngay cả lương thực, thực phẩm, nước ngọt cũng hoàn toàn trông chờ vào những chuyến tàu chuyển hàng ra đảo. Thức ăn chủ yếu là đồ hộp, đồ khô và đồ đông lạnh, bữa cơm mỗi ngày anh nuôi chỉ dám hái chút ít rau để nấu bát canh "toàn quốc" (nghĩa là canh toàn nước là chính). Dẫu phía sát ngoài rìa của thềm san hô có nhiều loài cá quý như chim, thu, ngừ và một số loài hải sâm song do kỷ luật quân đội, anh em không được đánh bắt mà chỉ có thể tranh thủ nhặt những chú cá nhỏ mắc cạn ngay rìa đảo. Còn rau thì phải trồng tận dụng trong những hộp xốp, thùng cót ép, thùng đạn gỗ… Những năm gần đây, bằng sự mưu trí, dũng cảm,vượt khó, cán bộ, chiến sĩ trên đảo Cô Lin đã tự túc được nước bằng nguồn nước mưa, là một trong những đảo chìm có trữ lượng nước dự trữ nhiều nhất trên quần đảo Trường Sa. Còn rau thì liệu có phải nhờ mồ hôi lính đảo mà lớn nhanh chăng mà hàng năm, sản lượng rau tăng gia của đảo đạt hơn 800kg.

Sứ - cậu chiến sĩ trẻ măng người Bình Thuận chạy lại mời tôi lên tầng. Trên giường cá nhân của Sứ, tôi bắt gặp một chiếc vỏ đồ hộp. Thì ra, Sứ dùng nó để chế một cây đèn bàn có thành phần kết cấu bao gồm: thân đèn là một chiếc chân quạt hỏng, chụp đèn là vỏ đồ hộp, được bao thêm một mảnh báo; công tắc đèn là một chiếc công tắc nhựa bình thường, được nhét vào phần lõm trước đây từng là núm vặn của chiếc quạt kia. Nhờ chiếc đèn này, các buổi tối, Sứ có thể đọc báo, ghi sổ sách nội vụ và cả… làm thơ mà không phiền đến các đồng đội khác. Về đất liền, tôi quyết tâm gửi ra tặng Sứ một chiếc đèn bàn, rồi lại thôi. Vì nghĩ, chỉ còn 6 tháng nữa là em xuất ngũ, hãy để cho chiếc đèn độc đáo đó ở bên em, là người bạn đồng hành cùng những trang thơ của em trong những năm tháng "tráng niên đại mộng" thật đẹp ở Trường Sa.

Trên tàu, chúng tôi đã được dặn rằng, các đảo chìm rất hiếm nước nên khách ra đảo cần tiết kiệm. Đến Cô Lin, chúng tôi cũng không dám uống những bình trà đã pha sẵn. Vậy mà cũng thành kỷ niệm. Các chiến sĩ cứ lấn bấn mãi khi tiễn đoàn, rồi Thiếu úy Nguyễn Hữu Thủy mạnh dạn hỏi: "Sao các đại biểu không uống nước ở đảo chúng em. Mọi người kiêng gì à?". Mọi người đành phải nói thật là do muốn tiết kiệm nước cho anh em. Cánh lính cười nhỏn nhẻn: "Mấy bữa trước trời mưa, đặt ống bơ để hứng nước nên hiện đảo nhiều nước lắm. Các chị đừng ngại". Vậy là khách lại trèo lên tầng 2 để thưởng thức mỗi người một tách trà. Lính đảo là thế đấy, dẫu còn thiếu thốn thật nhiều nhưng tấm lòng lại rộng rãi như biển cả. 

                                 *  

Những ngày chúng tôi ở Trường Sa cũng là những ngày Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào khu vực biển Hoàng Sa. Hành động đó chẳng khác gì mang dao cứa vào da thịt mẹ Tổ quốc ta, hòng cắt lìa đứa con Hoàng Sa dẫu 40 năm nay lưu lạc nhưng chưa lúc nào nguôi thương nhớ. Tôi thoáng bắt gặp những khoảnh khắc ưu tư trên gương mặt những người lính hải quân. Tại các điểm đảo chúng tôi ghé thăm, từ bộ đội hải quân cho đến bộ đội rađa, không quân; bộ phận nhà đèn, khí tượng đến các hộ dân trên đảo… đâu đâu cũng tràn ngập không khí khẩn trương, tất bật. Đoàn công tác chúng tôi phải di chuyển nhiều hơn, khẩn trương hơn và hầu như không được ngủ đêm tại một số đảo như thường lệ.

Ở Cô Lin cũng vậy, thời điểm chúng tôi lên đảo, ở bãi Gạc Ma, Trung Quốc đã điều gần 200 tàu vận tải đường biển cỡ lớn để phục vụ cho việc thay đổi hiện trạng trên bãi đá san hô này. Ngoài ra còn có 10 tàu phòng hộ tên lửa Giang Vệ thường xuyên tuần hành xung quanh vùng biển Gạc Ma. Đặc biệt là còn có tàu nạo vét Thiên Kình với các trang thiết bị đào vét hiện đại, có thể đào sâu đến 30m với công suất khoan 4000kw và công suất nạo vét là 4500m3/g. Có thể thấy tham vọng của phía Trung Quốc là rất lớn, họ không chỉ chiếm giữ trái phép một phần lãnh thổ của Việt Nam mà còn muốn xây dựng Gạc Ma cùng Chữ Thập trở thành những đảo nhân tạo và căn cứ vững chắc làm bàn đạp cho những bước chân xâm lăng của họ sâu dần xuống Nam Biển Đông. Qua kính viễn vọng, thấy trên đảo Gạc Ma đã hình thành một số công trình như các tòa nhà bê tông, sàn bê tông cùng nhiều lô cốt, đài quan sát, bệ rađa đối hải, hệ thống thông tin siêu cao tần…

Những người lính ở Cô Lin chia sẻ rằng, vùng biển này là nơi tập trung rất đông tàu thuyền các nước đến đánh bắt hải sản. Nhất là các loại tàu của Trung Quốc nửa như tàu cá đơn thuần, nửa như do thám, rình rập và chỉ chực chờ chúng ta sơ hở. Anh em rất sôi nổi, đanh thép chỉ thẳng "tàu Trung Quốc" chứ không lòng vòng ám chỉ "tàu lạ, tàu nước ngoài". Một chiến sĩ khác gay gắt: "Ghét nhất là mấy cái tàu cá: Một chiếc tàu mẹ rất to, trên đó chứa hàng chục tàu con. "Mẹ con chúng" cõng nhau đến đây rồi thả cho bọn tàu con xuống đánh cá, cuối ngày lại về tàu mẹ và đi chuyển đi chỗ khác. Bọn này rất hung hăng, chúng sẵn sàng va chạm, gây hấn với tàu cá của ngư dân ta để giành ngư trường. Khi yếu thế thì lại chạy tót về tàu mẹ để cậy to bắt nạt tàu nhỏ hơn".

Thượng úy Nguyễn Văn Ba - chính trị viên đảo Cô Lin nói khẽ: "Làm nhiệm vụ ở Cô Lin, chúng tôi xác định không được phép lơ là mất cảnh giác, không được phép ngủ say, dù ban ngày hay ban đêm!". Có thể nói, tinh thần sẵn sàng chiến đấu và độc lập tác chiến của những người lính ở đây rất cao.

Giữa lúc chủ, khách tất bật thăm hỏi, tặng quà và giao lưu văn nghệ, thì trên chốt canh cao nhất đảo chìm Cô Lin có một người chiến sĩ cứ dán mắt vào chiếc ống nhòm nhìn ra bốn phía biển. Thượng tá Toàn, trợ lí tác chiến của Hải quân vùng 4 từng kể rằng, trên vọng gác tại các đảo chìm ở Trường Sa, thường được các chiến sĩ giăng những sợi dây ni lông có treo hàng chục chiếc ống bơ vỏ đồ hộp. Người lính nào trong ca gác của mình cũng phải nắm một đầu sợi dây đó. Việc làm này xuất phát từ một lý do rất nghiệt ngã là, nếu người lính trực bị đối phương bắn tỉa bằng súng giảm thanh giữa đêm tối để xâm nhập đảo, thì ngón tay anh vẫn kịp kéo dây để hàng chục chiếc ống bơ nhất loạt kêu vang, kịp thời báo động cho đồng đội phía dưới. Trót nhận nhiệm vụ làm MC cho phần giao lưu văn nghệ giữa chiến sĩ Cô Lin và đội văn nghệ xung kích của đoàn công tác nên tôi không kịp trèo lên vọng gác, chỉ có thể nhìn thấy nụ cười hiền như hoa phong ba trên gương mặt đầy nắng của chiến sĩ trên vọng gác. Có lẽ tay em cũng đang giữ một chiếc dây như thế. Biển Đông đang dậy sóng. Cả Trường Sa hôm nay đang phấn đấu thành đảo thép, thành chiến hạm nổi kiên cường giữa trùng khơi…

Phạm Vân Anh
.
.