Trao đổi xung quanh bài viết “Sách về Thái sư Lê Văn Thịnh:

Những sai sót không đáng có” của tác giả Kiều Mai Sơn: Nói thêm để rõ hơn

Thứ Hai, 03/04/2017, 07:22
Ngày 16/3, trên Báo Văn nghệ Công an có bài viết: “Sách về Thái sư Lê Văn Thịnh: Những sai sót không đáng có” (báo điện tử đăng ngày 17-3) của tác giả Kiều Mai Sơn. Nội dung bài viết phân tích một số sai sót trong sách “Thái sư Lê Văn Thịnh (1050 – 1096): cuộc đời và thời đại” (NXB Khoa học xã hội, 2016) do Hội Sử học Hà Nội biên soạn. 


Là người đã đọc cuốn sách này, và cũng từng tìm hiểu về nhân vật Thái sư Lê Văn Thịnh trong nhiều năm, và còn chuẩn bị xuất bản một cuốn sách về Thái sư Lê Văn Thịnh, tôi xin có một số trao đổi và cung cấp thêm một số tư liệu xung quanh bài viết của tác giả Kiều Mai Sơn và về nhân vật Thái sư Lê Văn Thịnh.

Thứ nhất, cuốn sách “Thái sư Lê Văn Thịnh (1050 – 1096): cuộc đời và thời đại” có sai sót về chính tả khi viết sai tên triều vua từ “Duy Tân” thành “Duy Tâm”. Gần đây, tôi đến đền Hiệp Sơn nằm trên núi Thiên Thai thờ Thái sư Lê Văn Thịnh thì thấy đền chỉ còn lưu giữ được hai đạo sắc. Một đạo sắc phong vào năm Tự Đức năm thứ 10 (1857), và một đạo vào năm Duy Tân thứ 3 (1909).

Cổng đền Thái sư Lê Văn Thịnh – nơi tìm ra tượng rồng đá. Ảnh: Từ Khôi.

Thứ hai, cuốn sách đề cập đến bài viết của PGS Tống Trung Tín khi viết sai về năm xảy ra vụ án hồ Dâm Đàm là năm 1906. Và cho đó là theo sử cũ. Kiều Mai Sơn dẫn sách “Đại Việt sử ký toàn thư” về năm xảy ra vụ án.

Thế nhưng, Kiều Mai Sơn lại dẫn sai và cho rằng năm xảy ra vụ án là năm Ất Hợi (1095) và tới năm 1096 thì Lê Văn Thịnh bị đày đi Thao Giang. Bạn đọc có thể kiểm chứng lại sách “Đại Việt sử ký toàn thư” sẽ thấy vụ án xảy ra vào tháng 3 năm 1096. Còn trong sách “Đại Việt sử lược” lại viết vụ án xảy ra vào tháng 11. Tại sao hai bộ sử lớn lại “vênh” nhau về thời gian xảy ra vụ án? Hai khoảng thời gian cách nhau hơn nửa năm, nhưng đều có hình thái thời tiết tạo ra sương mù trên hồ Dâm Đàm (hồ Tây) thời đó.

Kiều Mai Sơn viết: “Trang 159, viết về chùa Bảo Tháp, PGS Tống Trung Tín khẳng định: “Chắc chắn, chùa này thời Lý là tháp cho nên địa danh làng có tên là làng Bảo Tháp”. Đây là khẳng định võ đoán, không có cơ sở”. Tôi đồng tình với Kiều Mai Sơn khi cho rằng là một nhà khảo cổ, PGS Tống Trung Tín nên dựa vào khảo cổ để khẳng định chùa Bảo Tháp trước kia là tháp.

Theo nghiên cứu của tôi thì mới đây, trong quá trình phá chùa Bảo Tháp (có tên là Thiên Thư tự) cũ để xây dựng chùa mới ra khoảnh đất liền cạnh đã không phát hiện dấu vết của kiến trúc tháp. PGS Tống Trung Tín viết chùa Bảo Tháp theo truyền thuyết dân gian là nơi nhà ở của Thái sư Lê Văn Thịnh là có cơ sở.

Tại đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh liền cạnh chùa hiện vẫn còn bức đại tự: “Lê trạng nguyên cố trạch”. Dịch nghĩa là: “Nhà cũ của trạng nguyên họ Lê”. Và một tấm bia đề: “Thái sư tự bi ký”. Nghĩa là: “Bia ký chùa Thái sư”.

Dân gian truyền rằng, sau vụ án thì nhà cửa của Thái sư phải “hóa gia vi tự” (chuyển nhà thành chùa). Phải chăng, sau khi vụ án xảy ra thì nhà cửa của Thái sư bị tịch thu, sung công?

Về tên làng Bảo Tháp, theo tôi không phải dựa vào chùa Bảo Tháp trước là tháp, mà có thể là dựa vào tháp chùa Đông Lâm hoặc chùa Tĩnh Lự đều trên dãy núi Đông Cứu (Thiên Thai). Căn cứ theo văn bia chùa Thiên Thai thì tên làng Bảo Tháp có niên đại từ trước năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754).

Tượng rồng đá (xà thần) tại đền Thái sư Lê Văn Thịnh đã được công nhận là Bảo vật quốc gia. Ảnh: Từ Khôi.

Trong bài báo, Kiều Mai Sơn dẫn lời GS Phan Huy Lê viết sai thành chùa Đồng Lâm. Về chùa Đông Lâm và Tĩnh Lự trên núi Đông Cứu, sách “Đại Việt sử lược viết”: “Năm 1055 vua Lý Thánh Tông cho xây chùa Đông Lâm và Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu”. Vậy là, chùa Tĩnh Lự được khởi dựng trước chùa Phật Tích (1057) 2 năm, chùa Dạm (1086) 31 năm.

Có hay không ngôi tháp của chùa Đông Lâm trên núi Thiên Thai? Tôi khẳng định là có. Căn cứ dựa vào một số bia hiện còn lưu tại chùa Thiên Thư. Bia “Cứu lĩnh sơn thượng đỉnh Thiên Thai tự bi ký”, nghĩa: Bài ký bia chùa Thiên Thai trên đỉnh núi Đông Cứu, có đoạn: “Bảo Tháp trên đỉnh núi Đông Cứu, xã Đông Cứu, huyện Gia Định, phủ Thuận An, vốn có dấu tích của ngôi tháp đời trước, có ngôi chùa cổ nguy nga, do lâu ngày mà đổ nát chỉ còn nền đấy”.

Thậm chí tấm bia Bảo Tháp sơn Thiên Thai tự sãi vãi bi ký (Bia ký về sự đóng góp của các sãi vãi chùa Thiên Thai, núi Bảo Tháp) còn viết: “Tháp chùa của núi Bảo Tháp do Cao Vương thời Đường tạo ra đấy. Bỗng chốc, trải qua gió mưa, rường cột bị đổ nát, đến nay đã hơn tám trăm năm rồi”.

Căn cứ vào nội dung một số văn bia thì chùa Bảo Tháp xưa được gọi bằng các tên: “Thái sư tự” (Chùa Thái sư), “Thiên Thư tự”, “Thiên Thai tự”. Một số văn bia khác cũng vào thời Cảnh Hưng còn gọi núi là Bảo Tháp.

Bàn về tượng xà thần tại đền Thái sư Lê Văn Thịnh, Kiều Mai Sơn đã dẫn lời của GS Phan Huy Lê: “Còn tượng đá tạm gọi tượng xà thần hiện đặt tại đền thờ Lê Văn Thịnh vốn ở chùa Đồng Lâm trên núi Thiên Thai sau bị quân Pháp phá xây lô cốt, ủi xuống chân núi và tìm thấy năm 1993. Tượng này không liên quan đến Lê Văn Thịnh và cần nghiên cứu gắn liền với chùa Đồng Lâm. Trong nguồn gốc văn hóa của đạo Phật ở đây”.

Tôi thấy ý kiến của GS Phan Huy Lê là không có cơ sở. Thứ nhất, không có một căn cứ nào để khẳng định tượng xà thần là của chùa Đông Lâm (Đông Lâm chứ không phải Đồng Lâm). Thứ hai, nếu tượng xà thần bị quân Pháp ủi xuống chân núi để xây dựng lô cốt thì tại sao những thế hệ người cao tuổi ở thôn Bảo Tháp lại không biết gì về gốc tích pho tượng?

Vì thời gian xây dựng lô cốt trên núi Thiên Thai cùng lắm là vào năm 1947? Và ủi kiểu gì tài đến mức qua bao gập ghềnh, cây cối để dừng lại trước cổng đền thờ Thái sư? Và các cụ thôn Đông Cứu phát hiện pho tượng rồng đá này gần gốc cây bàng trước cửa đền vào năm 1991 chứ không phải năm 1993.

Còn về năm sinh, năm mất của Thái sư Lê Văn Thịnh, cuốn sách “Thái sư Lê Văn Thịnh (1050 – 1096): cuộc đời và thời đại” ghi năm sinh, năm mất như vậy là không chuẩn xác. Bài báo của Kiều Mai Sơn phân tích và đưa ra ý kiến của GS Phan Huy Lê: “ông sinh ra, lớn lên và hoạt động khoảng nửa sau thế kỷ XI” là đúng.

Trong quá trình nghiên cứu về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của Thái sư Lê Văn Thịnh, tôi nhận thấy theo thần tích và lời kể của dân làng quanh vùng có đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh thì đều thống nhất ông sinh năm Dần. Nhưng có nơi kể ông sinh năm Mậu Dần (1038), có nơi kể ông sinh năm Canh Dần (1050). Còn mốc năm mất 1096 thì sai vì đó chỉ là mốc năm xảy ra vụ án. “Đại Việt sử ký toàn thư” viết sau khi vụ án xảy ra, ông bị đày lên Thao Giang.

Như vậy, Thái sư Lê Văn Thịnh và dòng họ không bị tru di tam tộc như vụ án Lệ Chi Viên (cách quê Thái sư khoảng 3km) kinh thiên động địa xảy ra đối với dòng họ đại công thần Nguyễn Trãi năm 1442. Từ mấy trăm năm trước, tại Đình Tổ ở huyện Thuận Thành, cách quê hương Đông Cứu của Thái sư Lê Văn Thịnh khoảng 20km đã có ngôi đình thờ ông làm Thành hoàng làng và bên hồ sen rìa làng có ngôi mộ đất. Người dân kể đó là mộ của Thái sư Lê Văn Thịnh. Ông mất trên đường mãn hạn tù về quê. Hiện tại ngôi mộ đã được xây dựng khang trang.

Từ Khôi
.
.